Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2014

HÌNH TƯỢNG NGƯỜI ĐÀN BÀ LÀNG CHÀI

Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người đàn bà làng chài - người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh cao thượng mà khiến khi gấp trang sách lại ta không thể nào quên.
Để tạo nên hình tượng người đàn bà  ấy nhà văn đã tạo ra tình huống truyện độc đáo và từ tình huống độc đáo này mà nhân vật dần hé lộ số phận:
        Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai(dẫn chứng) . Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng (dẫn chứng). Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.
Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, NMC đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà  hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì Chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: CHỊ LÀ NGƯỜI VÔ DANH. Dường như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ.
- Ngoại hình: trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và  gợi ấn tượng người đàn bà xấu xí, mệt mỏi dường như đang buồn ngủ.  Và cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

- Số phận: Bất hạnh
Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ...
+ Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ
+ Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh
+ Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,...
+ Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh 1 con thú, với lời lẽ cay độc" Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà  coi đó là một lẽ đương nhiên.  Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con.
 Số phận đầy bi kịch được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.
- Phẩm chất, tính cách:
+ Nhẫn nhục, chịu đựng: chị coi việc mình bị đánh đó như 1 phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề nghị giúp đỡ thì : "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó".
 Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh trên biển không có người đàn ông.
+ Yêu thương con tha thiết(" phải sống cho con chứ không thể sống cho mình")
        Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con " Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, ko thể sống cho mình như trên đất được".
Tình thương vô bờ đối với những đứa con Phân tích ty của chị với thằng Phác, chị gửi nó lên rừng, chị đau xót khi thấy nó vì thương mẹ mà hận bố,....
=> Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của 1 cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa .
+ Người đàn bà vị tha
Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi ( "...nhìn con được ăn no, có khi vợ chồng, con cái sống vui vẻ, hoà thuận")
+Người đàn bà thất học nhưng lại rất sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời
Ý thức được thiên chức của người phụ nữ ("Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn")
Vì hoàn cảnh: trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề.
Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Bởi nếu hiểu sự việc một cách đơn giản chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được.
 Đắng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương mê muội, đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời.
Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
     Qua câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: Không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống. Đây cũng ;à nét mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà NMC chính là vị "khai quốc công thần của triều đại văn học mới".

Diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ.

- Bà cụ Tứ là người dân ngụ cư, nghèo khổ, góa bụa, ở vậy nuôi con, chịu nhiều đắng cay, cơ cực. Bà xuất hiện trong bóng chiều hôm chạng vạng tê tái với hình ảnh "lọng khọng từ ngoài ngõ vào vừa đi vừa lầm bầm tính toán gì trong miệng". Bà cũng như bao người mẹ Việt Nam khác rất mực yêu thương con cái.
      Vẻ đẹp nhân văn được thể hiện qua diễn biến tâm trạng
        * Lúc đầu bà ngạc nhiên
           - Thấy Tràng "reo lên như một đứa trẻ", vồn vã khác thường khi thấy mẹ, tâm trạng bà cụ Tứ cũng trở nên "phấp phỏng": Có cái gì đó bất thường đang chờ đợi bà. Đầu tiên là tâm trạng ngạc nhiên: Ngạc nhiên đến nỗi bà phải "đứng sững lại". Bởi căn nhà xưa nay chỉ có bà và Tr nay lại thấy xuất hiện một người đàn bà xa lạ. Vì thế hàng loạt những câu hỏi luẩn quẩn trong đầu bà: "Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?". Vì ngạc nhiên, phân vân nên bước chân của bà lão cũng "lập cập".  Khi đã vào trong nhà, Bà cụ Tứ lại càng ngạc nhiên hơn khi nghe thấy tiếng người đàn bà xa lạ chào mình bằng u.
       * Khi hiểu ra bà tủi phận.
 - Khi nghe Tràng phân trần, cắt nghĩa: "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ", bà cụ mới hiểu. "Bà lão cúi đầu nín lặng". Một sự im lặng chất chứa biết bao suy nghĩ. "Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình". Một nỗi tủi hờn, xót thương trào lên trong lòng bà cụ Tứ "Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc ăn nên làm nổi những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này...Còn mình thì...". Đằng sau lời độc thoại bỏ lửng đó người đọc có thể thấy được nỗi cay đắng của bà đang dâng lên tột đỉnh và  người mẹ nghèo khổ ấy đã  khóc " Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt...".
* Bà lo lắng: Thương con nên lo lắng cho con: "Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không".  Suy nghĩ này của bà cụ Tứ chứng tỏ bà đang rất lo lắng cho tương lai của hai con. Cũng chứng tỏ sự ám ảnh về nạn đói ấy thật khủng khiếp.
*Từ tủi phận và lo lắng  bà lão chuyển sang tâm trạng vừa vui mừng vừa thương xót anh con trai và người vợ nhặt. Vui mừng vì con có hạnh phúc, xót thương vì sự thật quá phũ phàng. Bà thở dài nhìn người đàn bà đang vân vê tà áo đã rách bợt  nay đã là dâu con của bà. Càng nhìn bà  càng thương thị lại càng thương con mình "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ. May ra mà qua được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó".
- Sau khi khẽ dặng hắng một tiếng, bà lão ôn tồn, "nhẹ nhàng" nói với nàng dâu:   "Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng..." . Ngôn ngữ của bà lão nhẹ nhàng, cái nhìn của bà với nàng dâu đầy cảm thông. Tất  cả xuất phát từ tình yêu thương con người của bà lão. Lời nói ấy làm anh Tràng nhẹ nhõm và cũng đã trả lại danh dự cho người đàn bà là  mang tiếng "theo trai".
* Bà lão chợt nhớ ra cái bổn phận mẹ chồng. Thế là bà lão bắt đầu nói với 2 vợ chồng, bà dặn dò các con"Nhà ta thì nghèo con ạ! Vợ chồng chúng mày liệu bảo nhau mà làm ăn". Bà ấp ủ và hướng hai con vào niềm tin tưởng ở tương lai phía trước với triết lí dân gian gần gũi "Rồi may ra ông giời cho khá...Biết thế nào hở con, ai giầu ba họ, ai khó ba đời". Điều này chứng tỏ bà là một bà mẹ chu toàn. Đây chính là  niềm lạc quan hy vọng đổi đời.
* Vì thương con bà lại ám ảnh chuyện cũ:  "Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão , nghĩ đến đứa con gái út, nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?".
* Song nổi bật hơn cả vẫn là tấm lòng thương yêu của bà cụ Tứ: Bà lão, nhìn người đàn bà, lòng đầy xót thương. Và cũng như biết bao bà mẹ nhân từ khác, bà cụ Tứ những mong con dâu mình hoà thuận. Bà an ủi đôi vợ chống son "Kể có được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo cũng chẳng ai người ta chấp nhặt chi lúc này. Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này  u thương quá". Bà cụ Tứ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ cháy xuống ròng ròng. Những giọt nước mắt xót xa, tủi nhục ấy, người vô tâm như Tràng làm sao có thể hiểu nổi.
* Sáng hôm sau: Bà cụ Tứ thật khác với ngày hôm qua. Người đọc  thấy bà "nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Cùng với nàng đâu, bà cụ xăm xắn thu dọn; quét tước nhà cửa. Người mẹ từng trải và nhân hậu ấy đã bằng mọi cách nhen nhóm một niềm vui, niềm hi vọng cho dâu con của mình. Bà cụ nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này. Bà dặn Tràng nuôi gà để "Chẳng mấy chốc có ngay đàn gà cho mà xem".
Bà cố gắng tạo niềm vui bằng nồi chè cám, nồi chè bà đã dành dụm chắt chiu để hôm nay mới có dịp đãi con. Tuy không ai nuốt nổi  nhưng chắc chắn rằng không ít người đọc đã chảy nước mắt trước tấm lòng cao thượng ấy của người mẹ nông dân nghèo khổ.
         Nghệ thuật:
KL :Bà cụ Tứ là hình ảnh điển hình về một người mẹ nghèo khổ nông dân Việt Nam với phẩm chất cao đẹp: thương con và giầu đức hy sinh, hiểu biết , lạc quan. Nhân vật mẹ Tứ thấm đượm tình cảm nhân đạo sâu xa vốn có trong truyền thống dân tộc. Và là một sáng tạo xuất sắc của KL. Khắc họa hình tượng nhân vật bà cụ Tứ, KL đã sử dụng một ngòi bút  trong sáng, chọn lọc  để miêu tả tỷ mỉ, chân thực tấm lòng vừa trắc ẩn, vừa bao dung của một người mẹ nông thôn VN.

Tình huống Vợ nhặt

A. Mở bài : giới thiệu Kim Lân, kể tên ba tác phẩm, xuất xứ Vợ nhặt, giới thiệu tình huống truyện (Một trong những  đặc sắc của truyện Vợ nhặt là Kim Lân đã sáng tạo một tình huống truyện vô cùng độc đáo) 
B. Thân bài
a. Khái niệm " tình huống truyện"
    - Khái niệm: Tình huống truyện là sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo theo lối lạ hóa. Đó là môi trường, hoàn cảnh để nhân vật xuất hiện, tính cách phát triển và dụng ý của nhà văn được bộc lộ sắc nét.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng cho rằng: "Tình huống truyện là lát cắt, là khúc  cua đời sống, nhưng qua đó, ta hiểu được trăm năm của đời thảo mộc"
b. Các ý cần đạt
1. Nhan đề Vợ nhặt cũng là một nét độc đáo: Tình huống truyện của tác phẩm này thể hiện ngay ở nhan đề "Vợ nhặt". Một anh nông dân "nhặt" được vợ. Thật là một chuyện khó tin. Bởi theo quan niệm truyền thống, ông cha cho rằng:
                                  Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà,
                                  Trong ba việc ấy thực là khó khăn.
    Vậy mà đọc tác phẩm chúng ta nhận thấy, Anh cu Tràng- một gã trai thô kệch, nghèo khổ lại là dân ngụ cư- chỉ "tầm phơ tầm phào" mấy câu mà có vợ theo về giữa lúc nạn đói khủng khiếp đang hoành hành. Sức hấp dẫn của tình huống truyện trước hết là ở đó. Và phải chăng tình huống trong tác phẩm này là một tình huống hành động, có lẽ đúng hơn là tình huống tâm trạng.

2. Đó là tình huống một anh cu Tràng nghèo khổ xấu trai, ế vợ đang đứng ngấp nghé bên bờ vực của cái chết vì đói khát lại nhặt được vợ trong nạn đói khủng  khiếp 1945.  
+ Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Tràng cũng thừa biết, người như hắn thì không thể có vợ. Khi đẩy xe bò mệt mỏi anh chỉ hò một câu cho vui " Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì". Tràng chỉ muốn hò để xua đi mỏi mệt trong người. Anh cũng chẳng có ý chòng ghẹo ai cả. Ai ngờ có người đàn bà đói xông xáo đến đẩy xe thật. Nhưng vì đùa vui nên Tràng đã không giữ đúng thỏa thuận của câu hò. Nhưng Tràng cảm thấy hạnh phúc biết bao khi gặp được cái "cười tít mắt của thị" bởi "từ xưa đến giờ có ai cười với hắn một cách tình tứ như vậy đâu".
+ Hôm sau gặp lại: Khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ có người đàn bà sầm sập chạy đến, cong cớn, sưng sỉa với hắn " Điêu, người thế mà điêu". Tràng không nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy xe cho mình. Trước mặt hắn là một người đàn bà thảm hại đã bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân cách. Thị gầy sọp hẳn đi, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày hốc hác, quần áo rách như tổ đỉa. Thấy người đàn bà đói, rách rưới thảm hại. Tràng động lòng thương. Có ai ngờ được rằng trong con người thô kệch ấy lại có một tấm lòng thương người cao cả. Thế rồi Tràng cho người đàn bà kia ăn, không chỉ ăn mà còn cho ăn rất nhiều " bốn bát bánh đúc". Đó chính là lòng thương một con người đói khát hơn mình chứ Tràng không hề có ý định lợi dụng hoặc chòng ghẹo.
Vốn tính hay đùa, Tràng lại tầm phơ tầm phào "Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân đồ lên xe rồi về". Nói đùa thế thôi, ai ngờ thị về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết"mới đầu anh cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng". Đó là nỗi sợ hãi có thật nhất lại là thời đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi " Chậc kệ!" . Chỉ một từ "kệ" thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình.
Bình luận: Tràng và người đàn bà kia như hai cành củi khô nhưng họ đã chụm vào nhau để nhen lên ngọn lửa. Tội nghiệp thay, người này thì cần hạnh phúc còn người kia thì lại cần chỗ dựa. Một người vì tình yêu, người kia vì miếng ăn. Nói tóm lại là họ LIỀU, nhưng cái Liều kia của họ làm người ta bật khóc. Bây giờ thì họ là người dũng cảm, dũng cảm bởi vì họ dám nắm tay nhau để bước qua ranh giới của sự sống và cái chết. Họ làm ta khâm phục và kính trọng, phải chăng hai con người khốn khổ ấy là niềm tin của Kim Lân về một giống nòi sẽ tiếp nối sẽ sinh sôi khi mà cả dân tộc đang đứng trước sự diệt vong của nạn đói ?
3. Tình huống truyện làm bộc lộ sâu sắc tâm trạng, tính cách nhân vật. Tình huống này đã gây ngạc nhiên cho cả xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng, và cả bản thân của Tràng nữa, vì hai lí do:
Một là, Tràng - một người nghèo túng, xấu xí, dân ngụ cư (bị người làng khinh bỉ) xưa nay đàn bà con gái chẳng ai thèm để ý. Vả lại không có tiền cưới vợ, vậy mà bỗng dưng lấy được vợ, lại là vợ theo hẳn hoi.
Hai là, giữa lúc đói kém này, người như Tràng, chỉ làm nghề đẩy xe bò thuê kiếm sống qua ngày, đến nuôi thân còn không nổi lại còn đèo bòng vợ với con.
Trong cái thời tao đoạn ấy, việc Tràng lấy vợ quả là một tình huống oái oăm. Ta sẽ mừng hay lo, buồn hay vui cho cặp vợ chồng này?
Trước hết là sự ngạc nhiên của cả xóm ngụ cư: Nhìn theo bóng Tràng và người đàn bà, mỗi người một suy nghĩ khác nhau, ai cũng ngạc nhiên, phân vân "ai đấy nhỉ ? Hay là người nhà bà cụ Tứ dưới quê lên", có người cười " hay là vợ anh cu Tràng ?",  có người thương hại "Biết có nuôi nổi nhau qua cái thời đói khát này không ?"
 Bà cụ Tứ: biết tin anh cu Tràng lấy vợ, lòng bà ngổn ngang trăm mối. Bà vô cùng ngạc nhiên, rồi vừa mừng vừa lo, vừa vui vừa tủi. Bà trở nên đổi khác "Cái mặt bủng beo u ám hằng ngày bỗng trở nên rạng rỡ hẳn lên". Chính bà là ngọn lửa nhen lên giữa cái nền thảm đạm của nạn đói làm ấm lên hạnh phúc của Tràng và cô vợ nhặt.
Tràng: Tâm trạng của anh cũng khá phức tạp. Nhưng về cơ bản, anh lo ít vui nhiều. Mới đầu Tràng cũng "chợn", nhưng liền sau đó chặc lưỡi "kệ !".Trên đường đưa vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, "hắn lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình". Niềm vui át hẳn nỗi lo, đến nỗi anh ta không hiểu được tại sao vợ lại buồn, mẹ lại khóc "chán quá, chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc!". Bỗng nhiên "nhặt" được vợ, hạnh phúc đến với Tràng quá lớn và quá đột ngột. Mãi đến sáng hôm sau anh ta vẫn còn thấy "trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra". Và cùng với niềm vui, ý thức về bổn phận, về trách nhiệm đối với cái tổ ấm của mình cũng nảy sinh. Anh ta thấy thương yêu gắn bó với mọi người, với ngôi nhà một cách lạ lùng."Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng...Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn thấy hắn mới nên người". Tràng biết quan tâm đến chuyện chính trị. Biết nghĩ suy về lá cờ đỏ và đoàn người kéo nhau đi phá kho thóc nhật. Đây chính là sự chiếu rọi của cách mạng tới sự giác ngộ của Tràng.
Cô vợ nhặt: Cái đói đã đẩy người đàn bà đến chỗ chẳng còn biết xấu hổ là gì, mất đi lòng tự trọng, mất cả nữ tính.  Thị không hơn gì cái rơm cái rác, người ta có thể nhặt được nơi đầu đường xó chợ. Giá của người đàn bà chỉ bằng bốn bát bánh đúc, hai hào dầu, một cái thúng con... thị cho không Tràng chính bản thân mình chỉ vì muốn được sống. Sau đêm tân hôn thị trở thành con người khác hẳn. Là nàng dâu hiền thảo, biết quan tâm vun vén hạnh phúc gia đình, khác với vẻ "chao chát - chỏng lỏn - sưng sỉa" mà Tràng đã gặp ngoài chợ.
    4. Tình huống truyện thể hiện thái độ của nhà văn đối với con người và thực trạng xã hội đương thời.
•·        Nhà văn lên án tội ác của bọn phát xít Nhật, thực dân Pháp và phong kiến tay sai đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đẩy dân tộc ta vào cảnh túng đói quay quắt, kinh hoàng "Người chết như ngả rạ". Lịch sử còn ghi lại nạn đói ghê sợ ấy, từ Lạng Sơn đến Quảng Trị, hơn hai triệu đồng bào ta chết đói.
•·        Thái độ cuả nhà văn đối với con người:
Nhà văn xót xa và cảm thương sâu sắc với nỗi khổ của người dân lành. Kim Lân thực sự xót xa, ái ngại khi nhận thấy con người phải đối diện với đói rét, khi con người bị rẻ rúng, coi thường.
Kim Lân trân trọng, tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp của người dân nghèo: Dù đối mặt với hoàn cảnh sống ngặt nghèo, tăm tối, người dân nghèo vẫn luôn thương yêu, đùm bọc, cưu mang nhau. Thậm chí càng gieo neo, khốn khó, họ càng thương yêu nhau. Thật đúng với tinh thần"Thương người như thể thương thân", "Lá lành đùm lá rách"...đầy tính nhân văn của dân tộc ta. Quan trọng hơn, nhà văn muốn ngợi ca niềm tin, niềm lạc quan yêu sống của con người Việt Nam. Bởi mấp mé bên vực thẳm của cái chết, người dân ngụ cư vẫn không hề bi quan, không buông xuôi, phó mặc sự sống mà rất yêu sống, ham sống. Thật đúng là "còn da lông mọc, còn chồi nảy cây".
KẾT BÀI

    Tình huống truyện trong Vợ nhặt thật độc đáo. Là hạt nhân của cấu trúc thể loại, tình huống truyện trong Vợ nhặt đóng vai trò rất quan trọng. Qua tình huống truyện, nhà văn không chỉ dựng được chân dung các nhân vật, mà quan trọng hơn, thái độ của nhà văn được thể hiện thật tự nhiên và sâu sắc.

Tóm tắt Ông già và biển cả

Nhân vật trung tâm của tác phẩm là Xan-ti-a-gô -một "ông già" đánh cá người Cuba, 74 tuổi .
Suốt 84 ngày liền, ông lão không bắt được một mống cá nào, dân làng chài cho rằng lão đã “đi đứt” vì vận rủi. Cậu bé Ma-nô-lin cũng bị cha mẹ không cho đi câu chung với lão nữa.
Vào ngày thứ 85, lão quyết định ra khơi trước khi trời sáng. Lần này lão đi thật xa, đến tận vùng Giếng Lớn. Khoảng trưa, một con cá lớn cắn câu, kéo thuyền về hướng tây bắc.
Sáng ngày thứ hai, con cá nhảy lên . Đó là một con cá kiếm, lớn đến nỗi trước đây lão chưa từng nhìn thấy. Con cá lại lặn xuống, kéo thuyền chạy về hướng đông.
Sang đến ngày thứ ba, con cá bắt đầu lượn vòng. Dù đã kiệt sức, lão kiên trì thu ngắn dây câu, rồi dốc toàn lực phóng lao đâm chết được con cá, buộc nó vào mạn thuyền dong về. Nhưng chẳng bao lâu nhiều đàn cá mập đánh hơi được đã lăn xả tới. Từ đó đến đêm, lão lại đem hết sức tàn chống chọi với lũ cá mập- phóng lao, vung chày, thậm chí dùng cả mái chèo để đánh- giết được nhiều con, đuổi được chúng đi, nhưng lão biết con cá kiếm của mình chỉ còn trơ lại một bộ xương.
Đến khuya, đưa được thuyền vào cảng, về đến lều, lão vật người xuống giường và chìm vào giấc ngủ , rồi mơ về những con sư tử


TÓM TẮT TRÍCH ĐOẠN ĐỌC HIỂU TRONG SÁCH GIÁO KHOA

Sang đến ngày thứ ba, con cá bắt đầu lượn vòng. Bằng tất cả kinh nghiệm và sự khéo léo lão thận trọng thu dây câu nhưng lão biết vòng tròn còn khá lớn, con cá hãy còn xa tầm tay của lão. Từng tí một lão cố gắng thu hẹp vòng lượn của con cá và phát hiện rằng con cá đã thấm mệt nên liên tục ngoi lên trong lúc bơi.
           Sau cú quật đột ngột và cú nảy mạnh ở sợi dây, lão sợ con cá nhảy lên có thể làm văng mất lưỡi câu. Nhưng con cá không nhảy lên mà bắt đầu lượn vòng chầm chậm. Lão cho đó là cơ hội lí tưởng để mình nghỉ ngơi dưỡng sức .
 Đến vòng lượn thứ ba, lần đầu tiên lão thấy con cá như một cái bóng đen lướt qua dưới con thuyền, rồi trông thấy rõ hơn khi nó mấp mé mặt nước. Đến vòng lượn tiếp theo, lão trông thấy lưng cá nhưng nó vẫn còn ở xa thuyền. Lão chuẩn bị lao, và thu dần dây câu.Đến mấy vòng lượn sau con cá tiến gần mạn thuyền . Dù đã kiệt sức, lão vẫn giẫm chân giữ dây câu, rồi dốc toàn lực phóng lao đâm vào chỗ hiểm giết chết được con cá. Máu cá loang ra nhuộm sẫm cả vùng nước chung quanh. Con cá chết thẳng đơ, trắng bạc và bồng bềnh theo sóng.
            Không thể đưa con cá lên thuyền vì nó quá lớn, lão cẩn thận buộc nó dọc theo mạn thuyền, giương buồm về bến. Lão thật sự hài lòng và tự hào với thành quả lao động của mình.


Tóm tắt Thuốc

- Chương I: Vợ chồng Hoa Thuyên- chủ một quán trà nghèo- có đứa con trai độc nhất mắc bệnh lao rất nặng. Nhờ có người mách, vào một đêm thu lúc trời chưa sáng hẳn, lão Hoa Thuyên  tìm tới pháp trường để mua chiếc bánh bao tẩm máu người vừa chịu án chém về cho con ăn vì cho rằng ăn như thế nó sẽ khỏi bệnh.
- Chương II: Vợ chồng Hoa Thuyên cho bé Thuyên ăn thuốc. Thằng bé thật tiều tuỵ, đáng thương. Vợ chồng Hoa Thuyên đặt hết niềm tin tưởng vào sự hiệu nghiệm của phương thuốc này. 
- Chương III: Trời vừa sáng,  lúc bé Thuyên ăn thuốc xong, quán trà nhà lão Hoa Thuyên dần đông khách. Câu chuyện của khách xoay quanh hai sự việc. Sự việc thứ nhất là tất thảy bọn họ đều tin tưởng vào công hiệu của phương thuốc bánh bao tẩm máu tươi mà thằng bé vừa ăn . Hai là họ bàn tán về người tù bị chém sáng nay. Qua lời của Cả Khang thì người bị chém tên là Hạ Du người trong địa phương. Hạ Du theo đuổi lí tưởng đánh đổ nhà Mãn Thanh, giành chủ quyền cho người Trung Quốc (Thiên hạ nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta). Hạ Du bị bắt vì người bà con tố giác. Trong tù Hạ Du vẫn tuyên truyền tư tưởng cách mạng. Tuy nhiên, tất cả những người có mặt trong quán trà hôm đó không một ai hiểu đúng về Hạ Du. Bọn họ cho Hạ Du là điên, là thằng khốn nạn.
- Chương IV: Vào một buổi sáng Thanh minh năm sau, mẹ Hạ Du và bà Hoa Thuyên cùng đến nghĩa địa (dành cho người nghèo, người tù và người bị chém) viếng mộ con. Hai người mẹ đau khổ bước đầu có sự đồng cảm . Họ rất ngạc nhiên khi thấy trên mộ Hạ Du có một vòng hoa. Mẹ Hạ Du đã bắt đầu hiểu ra việc làm của con bà và tin tưởng những kẻ giết hại Hạ Du nhất định sẽ bị quả báo

Tóm tắt Số phận con người

Chiến tranh kết thúc, Xô-cô- lôp giải ngũ nhưng không muốn trở lại quê nhà. Anh đến chỗ của một đồng đội cũ, xin làm lái xe cho một đội vận tải. Tình cờ anh gặp chú bé Va-ni-a mồ côi, không nơi nương tựa vì bố mẹ em đều đã chết trong chiến tranh. Ngay lập tức, anh quyết định nhận Va-ni-a làm con. Chú bé ngây thơ tin rằng Xô-cô-lốp là bố đẻ của mình. Xô-cô-lôp yêu thương, chăm sóc chú bé thật chu đáo và xem nó là niềm vui lớn, niềm an ủi của mình. Tuy nhiên, anh vẫn bị ảm ảnh bởi những mất mát quá lớn trong chiến tranh. Hằng đêm anh vẫn mơ thấy vợ và các con của mình, « thức giấc thì gối đẫm nước mắt ».

          Rồi một chuyện rủi ro xảy ra : xe anh đụng phải con bò và anh bị thu hồi bằng lái, phải chuyển sang làm thợ mộc để kiếm sống. Theo lời mời của một người bạn khác, ở Ka-sa-rư, anh dẫn bé Va-ni-a đến đó với hi vọng chừng nửa năm sau anh được cấp lại bằng lái mới. Dù thế, anh vẫn cố trấn tĩnh, vì không muốn để bé Va-ni-a biết được tâm trạng đau buồn của mình.

Tóm tắt HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT

Trương Ba, gần 60 tuổi- là một người làm vườn tốt bụng, đặc biệt rất cao cờ. Do tắc trách, Nam Tào gạch bừa tên Trương Ba, khiến ông phải chết oan. Vợ Trương Ba lên Thiên đình kiện. Theo gợi ý của Đế Thích,  để sửa sai, Nam Tào cho hồn Trương Ba nhập vào thể xác hàng thịt ở làng bên vừa mới chết, mới ngoài 30 tuổi, để được sống lại, ,.
Trú nhờ thể xác hàng thịt, hồn Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái : lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng; gia đình Trương Ba ngày càng lủng củng.  Đặc biệt, sống bằng thân xác hàng thịt, Trương Ba dần dà tiêm nhiễm một số thói xấu và những nhu cầu vốn xa lạ  với ông. Gay nhất là chị hàng thịt đòi hỏi Trương Ba phải là người đàn ông thực sự của chị. Lí trưởng nhân đấy sách nhiễu vòi tiền; con trai Trương Ba ngày càng đắc ý, lấn lướt, coi thường bố. Ngược lại, vợ, con dâu, cháu nội Trương Ba không thể chịu nổi và dần dần xa lánh. Trương Ba vô  đau khổ.
Trước nghịch cảnh ấy, Trương Ba quyết định trả lại thân xác cho hàng thịt, cũng không chấp nhận nhập vào xác cu Tị , kiên quyết chấp nhận cái chết.

Tóm tắt CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung (cũng là nơi anh từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Sau nhiều ngày “phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời cho” – đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã ngạc nhiên đến sững sờ khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh người chồng vũ phu đánh đập vợ một cách dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình.
Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp . . . Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng) người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người đàn bà ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ bước ra từ tấm ảnh

Tóm tắt Những đứa con trong gia đình

Chuyện kể về hai chị em Chiến – Việt, những đứa con trong một gia đình có nhiều mất mát, đau thương: cha bị Pháp chặt đầu hồi chín năm, mẹ vừa bị đại bác Mĩ bắn chết. Khi hai chị em Chiến – Việt trưởng thành, cả hai đều giành nhau tòng quân. Nhờ sự đồng tình của chú Năm, cả hai đều được nhập ngũ và ra trận.
Trong trận đánh ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt diệt được một xe bọc thép đầy Mĩ và sáu tên Mĩ lẻ nhưng anh cũng bị thương nặng, lạc đồng đội, một mình nằm lại chiến trường khi còn ngổn ngang dấu vết của đạn bom và chết chóc. Việt ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, Việt hồi tưởng về gia đình, về những người thân yêu như mẹ, Chú Năm, chị Chiến… .

Đoạn trích thể hiện lần tỉnh dậy thứ tư của Việt trong đêm thứ hai. Tuy mắt không nhìn thấy gì, tay chân đau buốt, tê cứng nhưng Việt vẫn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và cố gắng từng tí một lê về phía có tiếng súng của quân ta vì phía đó “là sự sống”.
Việt hồi tưởng lại những sự việc xảy ra từ sau ngày má mất. Cả hai chị em đều háo hức tòng quân, nhưng Chị Chiến nhất định giành đi trước vì cho rằng Việt chưa đủ 18 tuổi. Đến đêm mít tin, Việt nhanh nhảu ghi tên mình trước. Chị Chiến chậm chân và “bật mí” chuyện Việt chưa đầy 18 tuổi. Nhờ chú Năm đứng ra xin giúp, Việt mới được tòng quân. Đêm hôm ấy, chị Chiến bàn bạc với Việt về mọi việc trong nhà. Việt răm rắp chấp nhận mọi sự sắp đặt của chị Chiến, vì Việt thấy chị Chiến nói giống má quá chừng.
Sáng hôm sau, hai chị em khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm. Việt cảm thấy lòng mình “thương chị lạ”.

Sau ba ngày đêm, đơn vị đã tìm thấy Việt. Anh được đưa về điều trị tại một bệnh viện dã chiến; sức khoẻ hồi phục dần. Anh Tánh giục Việt viết thư cho chị kể lại chiến công của mình. Việt rất nhớ chị, muốn viết thư nhưng không biết viết như thế nào vì Việt cảm thấy chiến công của mình chưa thấm gì so với thành tích của đơn vị và mong ước của má.

Tóm tắt RỪNG XÀ NU

Truyện kể về một làng ở Tây Nguyên- làng Xô Man- nằm giữa cánh rừng xà nu bạt ngàn, đang từng ngày hứng chịu những trận những trận đại bác của đồn giặc.
Chuyện chính thức bắt đầu bằng việc Tnú trở về thăm làng sau ba năm tham gia lực lượng Giải phóng quân. Thằng bé Heng dẫn đường cho Tnú vì đường vào làng nay đã bố phòng nghiêm ngặt: hầm chông, hố chông, dàn thò chằng chịt….
Đêm đó, Tnú ăn cơm và ở lại nhà cụ Mết. Cả làng tụ họp, Dít kiểm tra giấy phép xong, cụ Mết tự hào kể lại cho mọi người nghe trang sử đấu tranh đồng khởi của làng, gắn bó sâu sắc với cuộc đời Tnú.
*
Hồi ấy, Mỹ- Diệm khủng bố dữ dội, nhưng làng vẫn bí mật nuôi giấu cán bộ (anh Quyết). Tuy còn nhỏ tuổi, Tnú và Mai được giao làm liên lạc cho anh Quyết, rồi được anh Quyết dạy chữ. 
Một lần, trong chuyến đưa thư của anh Quyết lên huyện,  Tnú bị địch phục bắt, bị tra tấn nhưng anh nhất quyết không khai báo. Ở tù ba năm, Tnú vượt ngục  trở về làng thay anh Quyết lãnh đạo buôn làng tích cực chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa và kết hôn cùng Mai.

Tin làng  Xô Man chuẩn bị vũ khí chờ thời cơ nổi dậy đến tai giặc. Thằng Dục đưa lính đến lùng sục vây ráp. Cụ Mết, Tnú, cùng thanh niên lánh vào rừng. Không bắt được Tnú, bọn giặc bắt Mai  với đứa con nhỏ chưa đầy tháng của hai người đánh đập dã man.
 Từ vị trí ẩn nấp,  Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị giặc hành hạ, Tnú nhảy xổ vào cứu vợ con, rồi bị chúng bắt, Mai và đứa con chết. Bọn giặc tẩm nhựa Xà nu đốt mười đầu ngón tay anh để khủng bố tinh thần dân làng.
Tnú kiên cường chịu đựng quyết không kêu la. Có tiếng động chung quanh, Tnú thét lên một tiếng, dân làng đồng thanh, nhất tề nổi dậy, thằng Dục và tiểu đội ác ôn đã bị cụ Mết và thanh niên diệt gọn. Làng Xô Man đồng khởi thắng lợi. Tnú gia nhập Giải phóng quân. Anh dũng cảm lập chiến công, được cấp chỉ huy cho về phép thăm làng một đêm.


Sáng hôm sau, Cụ Mết, Dít tiến anh lên đường . Họ chia tay nhau ở đồi xà nu, cạnh con nước lớn.

Tóm tắt VỢ NHẶT

Giữa lúc xóm ngụ cư xơ xác, tiêu điều trong nạn đói đầu năm 1945, vào một buổi chiều tà, Tràng- một người nông dân nghèo, luống tuổi, thô kệch, lại dở hơi- dẫn một người phụ nữ về nhà.
Vì đang lâm cảnh ngộ đói rách cùng đường nên chỉ qua vài lần gặp gỡ với một vài câu nói đùa, rồi cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc do Tràng “chiêu đãi”, người phụ nữ này ưng thuận theo không anh về nhà
Mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón nhận người con dâu trong tâm trạng vừa buồn vừa mừng, vừa lo âu, vừa hi vọng nhưng không hề tỏ ra rẻ rúng người phụ nữ đã theo không con mình.
Đêm tân hôn của họ diễn ra trong không khí chết chóc, tủi sầu từ xóm ngụ cư vọng tới

Sáng hôm sau, một buổi sáng mùa hạ, nắng chói lói. Bà cụ Tứ và cô dâu mới xăm xắn dọn dẹp, quét tước trong ngoài. Trước cảnh ấy, Tràng cảm thấy mình gắn bó và có trách nhiệm với cái nhà của mình và thấy mình nên người, trông người vợ đúng là một người phụ nữ hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như lần đầu gặp nhau. Bà cụ Tứ hồ hởi đãi hai con vài bát cháo loãng  và một nồi chè cám.

Qua lời kể của người vợ, Tràng dần dần hiểu được Việt Minh và trong óc Tràng hiện lên hình ảnh đám người đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phất phới.

Tóm tắt truyện Vợ chồng A Phủ

Vợ chồng A phủ kể về đôi vợ chồng người H’ Mông ở vùng Tây Bắc. Mỵ là một cô gái xinh đẹp có tài thổi sáo. Trai bản nhiều người mê và Mỵ đã có người yêu . Dù cha Mị nợ thống lí Pá Tra một món tiền lớn, chưa trả nổi, hằng năm phải trả lãi cả một nương ngô nhưng Mị kiên quyết không lấy A Sử -con trai thống lý Pá Tra- để xoá nợ. Nhưng một đêm xuân, Mị bị A Sử lừa, bắt về trình ma nhà nó. Tiếng gọi là làm vợ A Sử nhưng  Mị bị đối xử  thậm tệ.
Ban đầu, Mị định tự tử nhưng vì thương cha đành cam chịu sống trong đau khổ, câm lặng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
*
Ngày Tết lại về, Mị lén uống rượu một mình. Không khí vui nhộn, nhất là tiếng sáo gọi bạn tình đã giúp Mị nhớ lại những ngày trước, khơi dậy ở Mị khát vọng tình yêu hạnh phúc. Mị vào buồng, định thay váy áo đi chơi thì bị A Sử bắt trói đứng vào cột nhà, bằng cả thúng dây đay, cả tóc Mị. Trong cơn chập chờn mê tỉnh, Mị vẫn thả hồn theo các cuộc chơi. Đến lúc thích chí vùng bước đi mới biết toàn thân bị trói chặt, đau buốt.
Cũng đêm đó, A Phủ, một thanh niên mồ côi nhưng khoẻ mạnh, can trường, đã đánh A Sử, vì bất bình trước trò xấc xược của hắn ta. A Phủ bị làng bắt về xử tội và trở thành người ở trong nhà Pá Tra để trừ nợ.
*
Một mùa đông giá rét, rừng đói, hổ báo từng đàn ra phá nương, bắt bò ngựa . A Phủ vì mải mê bẫy nhím nên đã để hổ bắt mất một con bò. A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói đứng vào một cây cột, suốt mấy ngày đêm- chờ khi nào A Sử bắn được hổ mới tha.
Lúc ấy, tuy Mị đã trở thành một con người đờ đẫn, vô cảm nhưng khi nhìn thấy hai dòng nước mắt của A Phủ lặng lẽ rơi trên hai hóm má xám đen vì kiệt sức, tuyệt vọng, Mị động lòng thương người cùng cảnh ngộ. Sau một hồi suy nghĩ, Mỵ đã cắt dây trói cho A Phủ. Rồi, Mị vụt chạy theo anh ta.
*

Cả hai băng rừng sang Phiềng Sa, trở thành vợ chồng. Quân Pháp tràn tới, dân làng hoang mang lo sợ. A Châu, cán bộ Đảng đã tìm đến xây dựng phong trào và kết nghĩa anh em với A Phủ. A Phủ đã trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng với Mị và đồng đội tích cực tham gia chống Pháp và tay sai bảo vệ quê hương .

Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người "vợ nhặt"

I. MỞ BÀI
Kim Lân là cây bút chuyên về đề tài nông thôn. Sáng tác của ông phản ánh một cách chân thực và xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông am hiểu sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lí của họ. Một trong  những sáng tác xuất sắc của Kim Lân là truyện ngắn “Vợ nhặt”. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp vừa là bài ca ca ngợi về sức sống và niềm tin của con người Việt Nam. Trong truyện ngắn này Kim Lân đã xây dựng thành công hình tượng người “vợ nhặt” – một hình tượng nghệ thuật độc đáo mang lại nhiều vẻ đẹp khuất lấp cần khám phá.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát: Tâm sự về hoàn cảnh ra đời của “Vợ nhặt” Kim Lân nói: “Ban đầu tôi viết một truyện dài có tên là Xóm ngụ cư. Tôi viết đến chương thứ V thì dừng lại. Sau khi hoà bình lập lại, tôi và Nguyên Hồng làm tờ báo Văn. Trong bản thảo Xóm ngụ cư có một đoạn luôn ám ảnh tôi là đoạn viết về những người đói, về những buổi sáng ở vùng quê người ta ra chợ nhặt xác người đi chôn. Tôi viết lại chương đó thành truyện ngắn Vợ nhặt mà không đọc lại bản thảo cũ”.  Truyện được in trong tập “Con chó xấu xí”.  
Bối cảnh của truyện là nạn đói năm 1945, người chết đói như ngả rạ. Từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ đã có trên hai triệu người chết. Tràng, một thanh niên nghèo khổ làm nghề đẩy xe bò thuê. Giữa nạn đói đang diễn ra, Tràng dắt một người đàn bà về làm vợ. Cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, bà cụ Tứ (mẹ Tràng) ngạc nhiên và ngay cả bản thân Tràng cũng không tin đó là sự thật.
2. Nội dung phân tích  
a. Người “vợ nhặt” là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh: Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ không tên không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là cành củi khô trôi dạt vào cuộc đời Tràng, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”.Nhưng nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
- Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói:
+ Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, thị: “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.
+ Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ nữ gầy vêu vao: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Có thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Vì đói mà thị trở nên: “chao chát”,“chỏng lỏn”,“chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị cứ thế mà đòi ăn. Được cho ăn, thị sẵn sàng: “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”.  Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách. (So sánh thêm với Đói – Thạch Lam) Giáo viên: Phan Danh Hiếu
b. Vẻ đẹp khuất lấp thể hiện phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lòng ham sống mãnh liệt. Lòng ham sống, khát vọng sống đã thôi thúc thị đồng ý theo Tràng:
                        Khi  anh cu Tràng hay đùa, lại đùa: “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im lặng là đồng ý). Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? Gốc tích ra sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng (“theo trai” – chữ dùng của Kim Lân). Đó là ý thức bám lấy sự sống là vì để được sống chứ không phải là loại người lẳng lơ. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: “Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
c. Vẻ đẹp khuất lấp thể hiện phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáy, người  “vợ nhặt” lại là một người phụ nữ rất ý tứ, biết điều:
Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Trước cái nhìn“săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin: “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”. Đó phải chăng là vẻ đẹp của cô dâu về nhà chồng.
Về đến nhà chồng, nhìn thấy“ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao.
Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt  “ngồi mớm” vào mép giường (“Ngồi mớm” – thế ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”. Giáo viên: Phan Danh Hiếu
d.  Vẻ đẹp khuất lấp còn thể hiện bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, người vợ nhặt lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan, có ý thức xây dựng hạnh phúc gia đình.
+ Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời ấy: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị.
+ Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng:"Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ to lắm”. Qua đó, ta thấy nhân vật vợ Tràng, "nàng dâu mới" cũng là:Người truyền tin cách mạng.
Viết về sự đổi thay trong tâm lý của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở đây. Cũng qua hình ảnh người vợ nhặt và nhan đề độc đáo ấy, Kim Lân đã góp tiếng nói lên án, tố cáo tội ác tày trời của bọn phong kiến, phát xít, thực dân đã đẩy dân tộc ta vào hoàn cảnh khốn cùng. Giá trị của một con người trở nên rẻ rúng, người ta có thể nhặt được vợ, thậm chí có vợ theo. Nhưng con người Việt Nam dù trong hoàn cảnh nào họ cũng biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc lẫn nhau để hướng về tương lai hi vọng trông chờ.
3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật  vào tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí  được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…
III. KẾT BÀI
Tóm lại, người “vợ nhặt” là một sáng tạo của Kim Lân. Thông qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người Việt Nam dù sống trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai với niềm tin vào sự sống. 

Giá trị nhân đạo của tp “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu)

I. MỞ BÀI
    “Chiếc thuyền ngoài xa” là sáng tác tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Minh Châu thời kì đổi mới sau 1975. Tác phẩm rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Có thể nói, đây là một trong những tác phẩm chứa đựng nội dung nhân đạo sâu sắc.
II. THÂN BÀI
   1. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm kể về tình huống của nghệ sĩ Phùng khi anh về chụp bức tranh cảnh biển tại một bãi biển miền Trung. Tại đây anh phát hiện bức tranh thiên nhiên đẹp mà trong cuộc đời cầm máy ảnh anh chưa bao giờ được thấy. Nhưng đằng sau bức tranh đẹp ấy là cả một sự thật nghiệt ngã về cuộc sống của một gia đình hàng chài. Cảnh người chồng vì đói nghèo thất học đã xem việc đánh vợ là phương thức giải tỏa những khổ đau cho mình. Rồi ở tòa án huyện anh đã chứng kiến câu chuyện đầy cảm động của người đàn bà hàng chài khiến anh ngộ ra biết bao điều về cách tiếp cận cuộc sống. Tất cả được đều nhìn qua cái nhìn đầy nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của những con người, những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống. Đồng thời, nhà văn còn thể hiện sự nâng niu, trân trọng với những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin khả năng vươn dậy của con người dù trong bất kỳ hòan cảnh nào của cuộc đời.   
2. Giá trị nhân đạo của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”:
     a. Biểu hiện thứ nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” đó là sự đồng cảm của nhà văn đối với cuộc đời người lao động sau chiến tranh. Qua đó nhà văn lên án thói bạo hành trong cuộc sống gia đình đang diễn ra trong xã hội: nhà văn đã miêu tả cuộc sống ấy với bao nỗi nhọc nhằn của con người lao động thông qua hình tượng người đàn bà hàng chài. Nhà văn cảm thương cho số phận bất hạnh của chị (các em phân tích nỗi khổ của người đàn bà: xấu xí, nghèo khổ, nạn nhân của bạo hành gia đình).
          b.  Biểu hiện thứ hai của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” đó làsự phê phán, lên án hành động vũ phu thô bạo của người chồng trong đối xử với vợ, con (các em miêu tả cảnh người chồng đánh vợ) . Không những vậy, nhà văn còn thể hiện nỗi lo âu, khắc khoải về tình trạng nghèo cực, tối tăm của con người (cảnh đói nghèo, cơ cực, tình trạng bất ổn, bất trắc trong cuộc sống …là nguyên nhân sâu xa của sự bạo hành và sự nhịn nhục chịu đựng); đồng thời, Nguyễn Minh Châu cũng bày tỏ niềm trắc trở trước cuộc sống của thế hệ tương lai (qua cách nhìn của nhà văn đối với cậu bé Phác).
   c. Biểu hiện thứ ba của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” đó là ở sự khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của con người lao động mà tiêu biểu là người đàn bà hàng chài và đặt niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của họ: Đó là vẻ đẹp của lòng vị tha, sự thấu hiểu lẽ đời và tình mẫu tử sâu nặng (các em phân tích câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện). Trong hoàn cảnh đau khổ, nghèo khó, tăm tối vẫn ngời lên vẻ đẹp của tình yêu thương, của đức hi sinh thầm lặng.
     d. Biểu hiện thứ tư của giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” đó là tư tưởng nhân đạo mang tính triết lí của tác phẩm, còn được thể hiện ở việc nhà văn đặt ra vấn đề : làm thế nào để giải phóng con người khỏi những bi kịch gia đình, bi kịch cuộc sống con người muốn thoát khỏi đau khổ, tăm tối, man rợ cần những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực tiễn, cần rút ngắn khoảng cách giữa văn chương và hiện thực đời sống. (các em đưa thông điệp của nhà văn vào)
III. KẾT BÀI
   Tóm lại, tinh thần nhân đạo trong “Chiếc thuyền ngoài xa” chính là tấm lòng yêu thương, thông cảm, băn khoăn , trăn trở của Nguyễn Minh Châu  trong việc phát hiện đời sống và con người ở bình diện đạo đức thế sự. Qua đó tác phẩm thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn ở giai đọan sáng tác thứ hai : Văn học nghệ thuật phải gắn bó với cuộc sống, phải vì con người...Quan niệm ấy đã khiến tác phẩm của Nguyễn Minh Châu ở giai đọan này giàu nhân bản.Đọc tác phẩm của ông, người ta đau đớn, day dứt về thân phận con người và cùang tràn đầy khát vọng làm người cao đẹp.