I. MỞ BÀI
- Tô Hoài là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục
trong văn học hiện đại Việt Nam. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về
phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau của đất nước. Các sáng tác của ông
thiên về diễn tả sự thật đời thường với lối viết giản dị, gần gũi, thông tục.
- Truyện “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác năm 1952, là kết quả
của chuyến đi cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc, in trong tập “Truyện Tây Bắc”, được
giải Nhất giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955.
- Sau hơn nửa thế kỉ, đến nay truyện vẫn giữ nguyên vẹn sức
hút với nhiều thế hệ người đọc. Có được thành công như vậy là vì truyện ngắn
không chỉ mang giá trị hiện thực sâu sắc mà còn thể hiện rõ giá trị nhân đạo
cao cả.
II. THÂN BÀI
1. Giải thích: Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của tác
phẩm văn học chân chính. Nó được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc
đối với nỗi đau khổ của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét
đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ,
đồng thời lên án những thế lực tàn bạo, đen tối chà đạp lên quyền
sống, ước mơ hạnh phúc và phẩm giá của con người.
2. Phân tích:
- Biểu hiện thứ nhất của giá trị nhân đạo trong
tác phẩm "VCAP" trước hết được toát lên từ niềm cảm thông sâu sắc của Tô
Hoài đối với những số phận bất hạnh, bị tước đoạt quyền sống, bị
lăng nhục, đày đọa mà tiêu biểu là Mị và A Phủ.
+ Mị là cô gái trẻ đẹp, mơn mởn như bông hoa rừng nhưng bị
bắt cóc về làm con dâu gạt nợ nhà thống lý. Dưới mấy tầng áp bức của
cường quyền, thần quyền, lễ giáo, hủ tục phong kiến miền núi, Mị
sống âm thầm vật vờ như chiếc bóng, cứ “lùi lũi như con rùa nuôi
trong xó cửa”. Khi thì tưởng “mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”.
Bởi Mị sống mà hầu như mọi quyền lợi bị tước đoạt. Mang tiếng là con dâu nhưng
Mị lại là con dâu gạt nợ. Là con nợ hơn là con dâu. Là con nợ nên Mị thành nô lệ
để “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay. Cuối
mùa thì đi nương bẻ bắp…lúc nào cũng cài một bó đay ở trong tay để tước thành sợi.
Suốt năm, suốt đời như thế”. Bị bóc lột sức lao động đã đành, Mị lại còn bị tước
đoạt tuổi xuân, hạnh phúc, bị thần quyền áp chế. Nơi Mị sống chỉ độc “một ô cửa
sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay trông ra ngoài không biết sương hay là nắng”. Đó
là chốn địa ngục trần gian mà tên chồng A Sử đã trói buộc Mị vào đó, vùi dập tuổi
xuân của Mị ở đó.
+ A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh, gan bướng, sống
cuộc sống hồn nhiên, phóng khoáng của tuổi trẻ yêu đời, lao động
giỏi. A Phủ không nợ nần gì nhà thống lí mà rốt cục cũng biến
thành kẻ trừ nợ suốt đời bị đánh đập, bị trói buộc một cách thảm
khốc đến mức gần như tê liệt cả sức phản kháng. Cảnh xử kiện tàn bạo
như thời trung cổ được Tô Hoài vẽ nên bằng một trang giấy mà ở đó sự tàn nhẫn,
độc ác đã lên ngôi. A Phủ bị đánh đập gần như cả ngày: “đầu, đuôi mắt giập chảy
máu” nhưng “chỉ quỳ và im như cái tượng đá”. Đến cả cái cảnh vì để hổ bắt mất
một con bò, A Phủ phải bị trói đứng lên cái cột với dây mây quấn từ chân lên đến
cổ. Phải chờ chết một cách vô lý trên cái cọc ấy giữa đêm đông rét mướt nếu
không có bàn tay cứu giúp của Mị và tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn.
- Biểu hiện thứ hai của tư tưởng nhân đạo trong
tác phẩm này còn toát
lên từ sự tố cáo gay gắt thế lực phong kiến miền núi tàn bạo đã chà
đạp lên quyền sống của nhân dân lao động Tây Bắc.
+ Pá Tra- đại diện cho thế lực phong kiến miền núi -
đã lợi dụng chính sách cho vay nặng lãi để nô lệ hóa con người mà Mị và A Phủ
chính là nạn nhân của chúng. Mị và A Phủ từ là những đóa ban rừng mơn mởn, yêu tự
do, giàu tài năng nhưng vì món nợ mà họ đã trở thành những kẻ nô lệ suốt đời bị
đối xử như con vật. Nợ là sợi dây trói buộc thể xác của Mị và A Phủ vào nhà thống
lý nhưng thần quyền mới là sợi dây trói oan nghiệt nhất đã trói buộc tinh thần
Mị và A Phủ vào nhà thống lý. Họ đã bị thần quyền làm cho tê liệt về ý thức phản
kháng, trở thành những con người cam chịu kiếp sống trâu ngựa.
+ Không chỉ vậy, nhà Pá Tra còn dùng cường quyền, hủ
tục và những thủ đoạn bóc lột tàn nhẫn để thỏa mãn sự độc ác. Mị bị
bóc lột lao động tàn tệ chỉ biết chúi đầu vào công việc cả đêm cả ngày “suốt
năm, suốt đời như thế”. Bị A Sử trói đứng vào cột trong đêm tình mùa xuân chỉ
vì Mị muốn đi chơi. A Phủ thì quanh năm chỉ rong ruổi ngoài bìa rừng chăn bò
chăn ngựa đến nỗi quên cả việc về thăm làng cũ. Bị trói đứng vào cột chờ chết,
thế mạng mình cho mạng của con bò. Qua những số phận ấy, ngòi bút Tô Hoài đã vạch
trần bộ mặt tàn bạo của cha con nhà thống lý. Mang đến cho người đọc “tập hồ sơ
tội ác” về tội ác tày trời của giai cấp chủ nô phong kiến miền núi ở Tây Bắc
trước khi có cách mạng về.
- Biểu hiện thứ ba của giá trị nhân đạo trong tác
phẩm "Vợ chồng A Phủ" là việc nhà văn phát hiện và nâng niu trân trọng trước những
vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất cao đẹp của nhân vật Mị và A Phủ và khả năng đến
với cách mạng của họ.
+ Trước hết, nhà văn phát hiện và nâng niu trân trọng vẻ đẹp của nhân vật Mị. Mị là cô gái trẻ đẹp, giàu tài năng “Mị thổi sáo hay, thổi lá cũng hay
như thổi sáo”. Có tấm lòng hiếu thảo với cha già. Khi bị bắt về làm dâu gạt nợ
nhà thống lý, dù cuộc sống nhiều khổ cực, khổ như trâu ngựa nhưng trong Mị luôn
ẩn chứa sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sức phản kháng mạnh mẽ. Tất cả đã được
ngòi bút Tô Hoài trân trọng, nâng niu qua từng phát hiện.
Trong đêm tình mùa xuân, sức sống ấy như ngọn lửa bùng cháy dữ
dội. Khi nghe tiếng sáo vọng lại “thiết tha bổi hổi”, Mị đã sống lại những phút
giây tuổi trẻ ngày nào. Đó là lúc tài năng âm nhạc trong Mị được đánh thức “Mị
ngồi nhẩm thầm lời người đang thổi sáo”. Hành động ấy nói lên bao điều. Bấy lâu
nay, cô Mị câm lặng, vô cảm, ấy thế mà hôm nay bỗng được sống dậy. Bài hát cũ
lâu rồi không hát, điệu sáo ấy lâu rồi không thổi nhưng Mị vẫn nhớ, Mị không
quên nghĩa là sức sống trong Mị chưa nguội tắt mà vẫn âm ỉ như hòn than trong lớp
tro tàn.
Cũng trong đêm tình ấy, ngòi bút Tô Hoài còn chứng kiến được
hình ảnh một cô Mị nổi loạn cùng men rượu cay đêm tình. Rượu đã đưa Mị từ cõi
quên về với cõi nhớ, rượu và tiếng sáo ngất ngây gọi bạn tình đã làm Mị nhận ra
“Mị trẻ lắm. Mẹ còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Khát vọng ấy là khát vọng của con
người yêu tự do, khát vọng tự do mãnh liệt. Và hành động “Mị quấn lại tóc. Mị với
tay lấy chiếc váy hoa vắt ở phía trong vách… Mị rút thêm cái áo” đã cho thấy sự
bứt phá của Mị với bản năng sống mãnh liệt bất chấp cả cường quyền, thần quyền.
Ngay cả khi bị A Sử trói đứng vào cột “tóc Mị xõa xuống, hắn cuốn luôn tóc Mị
lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng được đầu nữa”. Nhưng Mị vẫn thản
nhiên, Mị không hề biết mình đang bị trói, thậm chí khi tiếng sáo nhập vào hồn
Mị, Mị đã “vùng bước đi”. Điều đó cho thấy, sức sống tinh thần trong Mị đã lớn
dậy, nó đã lấn át cả nỗi đau về thể xác. Cũng có nghĩa là bóng ma thần quyền,
cường quyền đã khuất phục trước sức sống ấy của Mị.
Sức sống mãnh liệt ấy lại một lần nữa trỗi dậy trong đêm cứu A Phủ.
Lúc đầu, Mị dửng dưng vô cảm trước cái chết cận kề của A Phủ. Nhưng sau đó,
dòng nước mắt của A Phủ “bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã thức dậy lòng
thương người trong Mị. Lòng thương người ấy đã làm sống dậy trong Mị sức phản
kháng mạnh mẽ. Nếu nói đêm tình mùa xuân là “tia lửa nhỏ” thì đêm cứu A Phủ là
“đám cháy lớn”. Đám cháy ấy bùng lên khi Mị nhận thức được tội ác cha con nhà
thống lý “Trời ơi chúng trói người ta đến chết thì thôi, chúng nó trói chết người
đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này. Chúng nó thật độc ác”. Nhận thức ấy
là nhận thức hoàn toàn bằng lí trí, bằng sự tỉnh táo. Từ nhận thức ấy mà sự nổi
loạn thứ hai của Mị mới thật là mong muốn của người đọc. Mị đã cắt đứt dây trói
cho A Phủ. Rồi Mị cũng vụt chạy theo A Phủ vì theo Mị “Ở đây thì chết mất”. Hơn
một lần trong truyện này Mị sợ chết. Lần đầu là thức dậy sau đêm bị trói nghĩ đến
người đàn bà đời trước bị trói đến chết trong căn nhà này “Mị sợ quá. Mị cựa quậy
xem mình còn sống hay là đã chết”. Lần thứ hai là lúc Mị cắt đứt xong dây trói
cho A Phủ. Như vậy, sợ chết là biểu hiện cao độ nhất của lòng ham sống. Đó là vẻ
đẹp sức sống tiềm tàng của con người lao động Tây Bắc và niềm tin của nhà văn
vào khả năng vươn dậy của nhân vật.
+ Bên cạnh đó, nhà văn Tô Hoài còn nhìn thấy bản chất
đẹp đẽ của A Phủ, một chàng trai của núi rừng tự do. Anh yêu lao động, giỏi giang: “biết
đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo…”. A Phủ rất khỏe,
chạy nhanh như ngựa. A Phủ đã trở thành niềm khát khao của bao cô gái trong
làng “Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà”. Nhưng A Phủ nghèo
nên không lấy được vợ. Tuy vậy, vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn, A Phủ vẫn sống
một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, yêu chính nghĩa, tự tin
của tuổi trẻ. “Đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như
nhiều trai làng khác, A phủ chỉ có độc một chiếc vòng trên cổ. A Phủ cũng cứ
cùng trai làng đem sáo, khèn, con quay và quả pao đi tìm người yêu ở các làng
trong rừng”. Trong cảnh xử kiện, dù bị đối xử tàn tệ nhưng A Phủ chỉ quỳ và “im
như tượng đá” đó là bản tính gan góc rất đáng quý. Lúc được Mị cứu, dù đã kiệt
sức nhưng A Phủ đã “quật sức vùng lên chạy”. Phải chăng ở con người đó luôn tiềm
ẩn lòng yêu đời, khát sống, khát tự do. Có lẽ vì vậy mà khi sang Phiềng Sa, A
Phủ đã nhanh chóng trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng Mị giải phóng quê
hương.
+ Nhà văn đã chỉ ra con đường giải phóng
thực sự của người lao động là đi từ tự phát đến tự giác. Mị và A Phủ từ tăm tối đau thương
đã vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm. Họ đã cùng nhau đạp qua đêm
tối, vươn đến ngày mai ở Phiềng Sa, nên vợ nên chồng. Cả hai người đã theo Cách
mạng, theo Đảng, đánh giặc, bảo vệ quê hương và thay đổi số phận của mình. Cũng
qua đó, tác giả đã bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống của con người
và là bài ca ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặc
biệt là sức sống tiềm tàng và hành động tự giải phóng của nhân
vật, đồng thời đặt niềm tin và sự trân trọng, nâng niu đối với khát
vọng sống tốt đẹp của con người dù bị đày đọa đau khổ.
- Tư tưởng nhân đạo sâu sắc như vậy nhờ có những thành
công đặc biệt về phương diện nghệ thuật. Nghệ thuật miêu tả tâm lí
nhân vật sắc sảo, cụ thể qua nhân vật Mị. Nghệ thuật xây dựng nhân vật có nhiều điểm đặc sắc: nếu nhân vật Mị được miêu tả tâm trạng rất thực thì nhân vật A Phủ được chú ý đến hành động để thể hiện tính cách nhân vật. Nhà văn còn có biệt tài miêu tả phong tục, tập quán, phong cảnh thiên nhiên sinh
động. Nghệ thuật kể chuyện sinh động, tự nhiên, hấp dẫn; ngôn ngữ rất tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi và thực sự đã để lại dấu ấn
của Tô Hoài đối với người đọc.
III. KẾT BÀI
Tóm lại, "Vợ chồng A Phủ" mang ý nghĩa tư tưởng
nhân đạo sâu sắc. Nó được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc với nỗi đau của
con người, sự nâng niu nét đẹp tâm hồn mà hơn cả là sự hướng tới giải phóng cho
con người tiêu biểu là số phận của Mị và A Phủ. Chính vì những giá trị nhân văn
cao đẹp ấy mà nửa thế kỷ trôi qua, tác phẩm của Tô Hoài ngày một thêm sáng
giá.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét