Thứ Năm, 5 tháng 9, 2024

PHÂN BIỆT TÙY BÚT VỚI BÚT KÝ VÀ THƠ VĂN XUÔI

 Bút ký là một thể loại khá gần gũi với tùy bút. Đôi lúc rất khó phân định ranh giới giữa hai thể loại này, nhất là khi cần xem xét ở những tác phẩm cụ thể. Cùng trong quyển sách “Thạch Lam – về tác gia và tác phẩm”, những người biên soạn cũng chưa có được sự nhất trí với nhau. Trong khi Nguyễn Thành Thi với bài viết "Thạch Lam, từ quan niệm về cái đẹp đến những trang vănHà Nội băm sáu phố phường”" khẳng định “Hà Nội băm sáu phô phường” là “một tập tùy bút” đặc sắc và Thạch Lam, cùng với Nguyễn Tuân, “đã có công đặt những viên đá tảng cho lâu đài tùy bút Việt Nam thời hiện đại”, thì ở phần điểm qua “Tác phẩm của Thạch Lam” cuối sách, tác phẩm này lại được ghi rành rành là bút ký. Hoặc như tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân, sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 12 hiện hành có đến ba cách định danh thể loại khác nhau: tùy bút, bút ký và tùy bút pha bút ký.

Như đã biệt, sự nhòe lẫn, giao thoa giữa các thể loại là hiện tượng tự nhiên, bởi những quy tắc chật hẹp của loại thể văn học không câu thúc được sức sáng tạo ở những nghệ sĩ tài năng. Chung gốc gác từ ký, nên trong bút ký và tùy bút luôn có sự hiện diện của yếu tố tự sự. Nhưng vai trò của yếu tố này ở mỗi thể loại có điểm khác nhau. Tự sự trong bút ký bao giờ cũng hướng đến mục đích biểu đạt tư tưởng của tác giả: “Bút ký ghi lại những con người và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu, nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình nhằm thể hiện một tư tưởng nào đó [...]. Sức hấp dẫn và thuyết phục của bút ký tùy thuộc vào tài năng, trình độ quan sát, nghiên cứu, khả năng biểu đạt của tác giả đối với các sự kiện được đề cập đến nhằm phát hiện những khía cạnh nổi bật, những ý manhath tưởng mới mẻ và sâu sắc trong các mối quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh, giữa cá nhân và môi trường” (Phan Cự Đệ chủ biên 2004:429). Trong khi đó, tự sự ở tùy bút thường có ý nghĩa như phương tiện để giải bày thế giới tâm hồn, cảm xúc. Nghĩa là, mặc dù đôi khi cũng có màu sắc trữ tình nhưng bút ký thiên về nhận thức, còn cái mạch chính trong tùy bút bao giờ cũng là cảm xúc, suy nghĩ. Về điểm này, Nguyễn Xuân Nam đã rất có lý khi khẳng định: “Bút ký là thể trung gian giữa ký sự và tùy bút [...]. Bút ký cũng không sử dụng hư cấu vào việc phản ánh hiện thực, những nhận xét, suy nghĩ, liên tưởng nhưng ít phóng túng triền miên, mà tập trung thể hiện một tư tưởng chủ đạo nhất định. Có thể nói, làm nổi bật giá trị nhận thức là ý nghĩa hàng đầu của thể loại” (Đỗ Đức Hiểu et al. 2004:173). Nguyễn Văn Hạnh trong Lý luận văn học – vấn đề và suy nghĩ cũng chỉ rõ những điểm tương đồng và dị biệt giữa bút ký với tùy bút: “Bút ký và tùy bút rất gần nhau, nhưng nếu trong tùy bút [...] phần trình bày suy nghĩ, nhận xét, liên tưởng, tưởng tượng của người viết chiếm một tỉ trọng lớn, và do đó tính chất trữ tình thường khá đậm nét, - bút ký việc ghi chép trung thực sự việc được coi trọng hơn [...].Xét về mức độ kết hợp tự sự và trữ tình, về tính chặt chẽ hay phóng khoáng trong tư duy và kết cấu, thì bút ký có thể xem như đứng giữa kỳ sự và tùy bút” (Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương 1998:100).
Một phương diện khác cũng ghi nhận nét tương đông và dị biệt hư cấu, ở một mức độ nhất định. Hư cấu trong tác phẩm ký “không có giữa bút ký với tùy bút là vấn đề hư cấu. Cả hai đều dung hợp được hư nghĩa là thêm vào thực tại một cái gì đó tự nó không có [....]. Nhiều tại những gì bị xem là thừa thãi [...]. Một tác phẩm ký chỉ được sinh thành sau một quá trình hư cấu, trong đó ý thức sáng tạo hoạt động . Nếu hư cấu trong bút ký có thể xuất hiện ở mọi cấp độ, từ đề tài, nhận vật, chi tiết đến tình huống, tư tưởng thì ở tùy bút, hư cấu khắc tâm trạng hoặc mãnh liệt, rõ nét hoặc chỉ bàng bạc, mơ hồ. Nghĩa được sử dụng trong khi người nghệ sĩ cố gắng ghi lại những khoảnh là, nếu hư cấu trong bút ký nhằm ảo hóa, lạ hóa đối tượng thì ở tùy bút, nó giúp hình tượng hóa, hiện thực hóa thế giới tâm hồn chủ quan của con người.
Lời văn tùy bút rất giàu chất thơ, nhưng vẫn có nhiều nét khác với thơ nhau ở chỗ cấu trúc ngữ pháp có tạo nên nhịp điệu, nhạc điệu. Về phương diện hình thức, thơ văn xuôi và tùy bút gần giống khác biệt trong sự vận động của mạch tư tưởng, cảm xúc ở đây là: một bên đi theo nhịp luân vũ (đường tròn), một bên đi theo bước dạo chơi (đường thẳng). Hình ảnh và ngôn ngữ trong thơ bao giờ cũng đòi hỏi một mức độ cách điệu, lý tưởng vì đã khúc xạ, thăng hoa hoàn toàn qua lăng kính chủ quan của thi nhân. Còn trong tùy bút, chất liệu để làm nền cho mạch xúc cảm cần có độ tươi nguyên của hiện thực. Tùy bút đa phần sử dụng lớp nghĩa tường minh của ngôn từ, trong khi thơ văn xuôi lại phát huy tối đa những nét nghĩa hàm ẩn. Do đó, hình tượng nghệ thuật trong thơ văn xuôi có khả năng biến hóa kỳ ảo, lãng mạn hơn. Mặt khác, cũng như tùy bút, thơ văn xuôi thường đậm đà màu sắc trữ tình: “Thơ văn xuôi là một thể thơ thuộc phương thức biểu hiện trữ tình, dựa trên sự bộc lộ xúc cảm trực tiếp qua hình ảnh và tâm trạng […]. Do đó thơ văn xuôi phải phong phú hơn về cảm xúc trữ tình so với văn xuôi trong tự sự, miêu tả hoặc đối thoại”. (Bùi văn Nguyên, Hà Minh Đức 2003:325). Nhưng nếu ở thơ văn xuôi, các yếu tố tư tưởng, tình cảm, cảm xúc thường hòa tan bàng bạc vào tứ thơ, hình tượng thơ thì trong tùy bút, chúng được bộc lộ tương đối trọn vẹn qua từ ngữ, hình ảnh cụ thể, sinh động.
Suy đến cùng, phân biệt tùy bút với thơ văn xuôi chính là phân biệt giữa một thể văn xuôi giàu chất thơ với một thể thơ có hình thức biểu hiện gần như văn xuôi. Trong văn xuôi, tất cả mọi biện pháp nghệ thuật tập trung vào việc làm sáng tỏ chủ đề, tư tưởng của người viết. Còn trong thơ, chính tứ thơ mới là điểm quy chiếu, chi phối cách nhìn, cách cảm và cách thể hiện của tác giả. Tứ thơ là khái niệm trừu tượng để chỉ một chớp sáng tư tưởng, cảm xúc bất chợt thăng hoa trong quá trình suy tư, nghiền ngắm của người nghệ sĩ. Vì thế, ngôn từ, hình ảnh trong thơ văn xuôi bao giờ cũng tập trung hơn, xoáy vào chiều sâu chứ không dàn trải ra bề rộng như trong tùy bút.
(Trích “Về thể loại tùy bút”, Trần Văn Minh)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét