Chủ Nhật, 6 tháng 10, 2024

KHUNG MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA HK1 NH 2024-2025

 

1.      Khung ma trận đề 100% tự luận - Lớp 10

 

TT

Kĩ năng

Nội dung kiến thức / Đơn vị kĩ năng

Mức độ nhận thức

Nhận biết

Thông hiểu

Vận dụng

Vận dụng cao

Tổng

% điểm

1

Đọc

Thần thoại / Sử thi

2

2

2

0

60

2

Viết

 

Viết văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội

1*

1*

1*

1*

40

Tỉ lệ%

25%

45%

20%

10%

100

Tổng

70%

30%

 

2. Khung ma trận đề 100% tự luận - Lớp 11

TT

Kĩ năng

Nội dung kiến thức / Đơn vị kĩ năng

Mức độ nhận thức

Nhận biết

Thông hiểu

Vận dụng

Vận dụng cao

Tổng

% điểm

1

Đọc

Tuỳ bút / Tản văn

2

2

2

0

60

2

Viết

 

Viết văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội

1*

1*

1*

1*

40

Tổng

25%

45%

20%

10%

100

Tỉ lệ chung

 70%

 

 30%

 

 

3. Khung ma trận đề 100% tự luận - Lớp 12

TT

Kĩ năng

Nội dung kiến thức / Đơn vị kĩ năng

Mức độ nhận thức

Nhận biết

Thông hiểu

Vận dụng

Vận dụng cao

Tổng

% điểm

1

Đọc

Thơ cổ điển / Thơ lãng mạn

2

2

2

0

60

2

Viết

 

Viết văn bản nghị luận về một bài thơ ở phần Đọc

1*

1*

1*

1*

40

Tổng

25%

45%

20%

10%

100

Tỉ lệ chung

 70%

 

 30%

 

Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2024

CÁCH ĐƯA KIẾN THỨC LLVH VÀO BÀI VĂN

 

☘️
Cách đưa kiến thức LLVH vào bài làm văn HSG
☘️
Để làm một bài văn HSG, muốn viết hay, viết có chất riêng thì đầu tiên phải viết đúng (đúng trọng tâm), sau đúng là đủ (đủ là đủ ý) sau cùng mới là viết hay (hay thì có cần lý luận). Nên việc áp dụng và đưa kiến thức LLVH vào bài làm đòi hỏi người viết không chi năm vững kiên thức vê lí luận mà phải có kĩ năng luôn lách vận dụng linh hoạt trong toàn bộ bài viêt của mình. Vậy thì nên đặt kiên thức LL VH vào phân nào trong bài làm và đưa vào như thể nào cho hợp lí?
💕
Việc làm đầu tiên là xác định đúng trọng tâm yêu cầu của đề thuộc chuyên đề nào của LLVH đê đưa kiên thức LLVH vào cho hợp lý. Khi làm bài thì kiến thức LLVH đưa rải rác trong toàn bộ bài làm văn (mở, thân, kêt bài) và linh động ở từng kiêu dạng đê.

- Trong các chuyên đề về LLVH, sẽ có những kiến thức chi áp dụng cho các dạng bài riêng nhưng cũng có những kiến thức LLVH/nhận định lý luận văn học mà ta sử dụng chung cho tất cả các dạng đề. Bởi chung quy lại, hệ thống kiến thức lí luận văn học, có những yếu tố gắn liền với nhau không tách rời. Vì thế khi đề rơi vào chuyên đề nào củaLLVH, dựa vào các cặp phạm trù của văn học mà có thế sử dụng những cách dẫn LLVH chung/nhận định LLVH chung cho các dạng đề này. Những kiến thức lý luận/nhận định LLVH thuộc các phạm trù sau đây có thê sử dụng cho tất cả các dạng đề:
+ Tư tưởng-Tình cảm (nhà văn)
+ Nội dung-Hình thức (tác phâm văn học)
+ Phản ánh-Sáng tạo (quá trình sáng tác)
+ Cái Tâm-Cái Tài (nhà văn)
+ Cái mới mẹ-Cái ổn định (phong cách)
+ Tính cụ thế-Tính khải quát (hình tượng văn học)
+ Sáng tạo-Đồng sáng tạo (quá trình tiếp nhận)

- Tùy đề cụ thể mà ta có thể diễn đạt và dẫn LL VH vào phần mở, thân, kết bài cho phù hợp. Những cách dẫn chung này khi diễn đạt chú ý hướng tới giá trị ý nghĩa của văn chương, cái tài-tâm, phong cách của nhà văn là được. Ví dụ một số nhận định sau ta có thể dụng linh hoạt cho các dạng đề khi làm bài:
+ "Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy" (Sê-Khốp)
+ "Văn học thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi tới của văn học". (Tô Hữu)
+ "Nghệ thuật không cân phải là ánh trăng lừa dôi, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dồi, nghệ thuật có thê chỉ là tiêng đau khô kia thoát ra từ những kiếp lầm than" (Nam Cao-"Trăng sáng").
+ "Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đăng bái ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiển dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại" (Leptonxtoi).
+ "Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nều nó miêu tả cuộc sống chỉ đề miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó". (Bêlinxki)
+ "Trong một nhân tài thì một phần mười là thiên bẩm và chín phần mười là nước mắt và mồ hôi". (L.Tonxtoi)
+ "Nhà văn tốn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường; đề bênh vực cho những người không còn ai bênh vực". (Nguyễn Minh Châu)
+ "Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ, trái tim mới làm nên thi sĩ". (Nhà thơ Pháp Andre Chanier)
+ "Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tẩm thường dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc". (Tô Hoài)

Ví dụ cụ thể về cách đưa LLVH vào bài làm văn nghị luận:
- Ví dụ 1: Saltykov Shchedrin đã từng nói: "Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chi mình nó không thừa nhận cái chết". Vậy điều gì đã khiến các tác phâm nghệ thuật bất tử? Ở tài năng hay ở tấm lòng người cầm bút? Ý kiên của nhà phê bình Nga Bielinxky trên đây đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng, thậm chí, quyết định tư tưởng, tình cảm, hay nói cách khác, cái tâm của người cầm bút quyết định sức sống của một tác phẩm nghệ thuật, ở đây được hiêu là tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học chỉ sống được trong những tư tưởng, tình cảm mãnh liệt của người cầm bút mà thôi.

- Vi dụ 2: Dostoevsky khi lí giải động lực khiến mình cầm bút đã nói rằng: "Tôi hãy còn một trái tim, một dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông và chia sẻ". Còn R. Tagore mong muốn sau khi từ giã cõi đời, được nhắn nhủ lại một lời: "Tôi đã từng yêu". Có yêu ht nhưm nh y dôn vữhc vi ngunh tồg chốm nghi sậu sác g ãi s ng phẩm nghề thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chi để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khô đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó" (Lí luận văn học, NXB Giáo dục, 1993, trang 62).

- Vi dụ 3: Trong "Vũ trụ thơ", Đặng Tiến từng viêt: "Nghệ thuật tạo vẻ đẹp cho những dòng nước mắt và biến đôi thông khô của nhân loại thành tiêng hát vô biên". Ây chính là sứ mệnh chân chính của nghệ thuật. Trong đau khổ, trong đớn đau cùng quẫn, văn học nghệ thuật vẫn tìm ra vẻ đẹp khuất lấp bị chôn vùi như ánh sao xa sáng chói trong đêm tổi tăm mịt mù. Ngênh ngang mà đi vào đời sống văn học, những giọt nước mắt xót xa, những vết cắt ri máu, những tính ni non âm thanh vẫn được nghệ thuật trong tặng cho vẻ đẹp riêng biệt và trở thành khúc hát muôn đời về quyền được hạnh phúc an yên của con người. Chỉ có như vậy, nghệ thuật mới hoàn thanh trọn vai trò của nó, như người mẹ nâng đỡ giấc mơ và tâm hôn con người khi cùng đường tuyệt lộ.

THƠ MÙA THU

 THƠ MÙA THU

🍂
1. Tiếng Thu (Lưu Trọng Lư)
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phụ
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.

2. Sang Thu (Hữu Thỉnh)
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.

3. Đây Mùa Thu Tới (Xuân Diệu)
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tan
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.

4. Thu (Xuân Diệu)
Nõn nà sương ngọc quanh thềm đậu
Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì
Hư vô bóng khói trên đầu hạnh
Cành biếc run run chân ý nhi.

5. Thu Điếu (Nguyễn Khuyến)
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.

6. Cuối Thu (Hàn Mặc Tử)
Lụa trời ai dệt với ai căng
Ai thả chim bay đến Quảng Hàn
Và ai gánh máu đi trên tuyết
Mảnh áo da cừu ngắm nở nang.

7. Tình Thu (Hàn Mặc Tử)
Hôm qua ả Chức với chàng Ngâu
Nhắc chuyện yêu đương ở dưới cầu…
Kể lể một năm tình vắng vẻ
Sao em buồn bã suốt canh thâu.

8.Thu Vàng (Nguyễn Khuyến)
Lá vàng rơi rụng đầy sân
Thu đi, nắng vẫn hanh vàng trên đồi
Có chút gió lạnh se lời
Lòng người xao xác, bồi hồi nhớ nhung

9. Thu Sang (Nguyễn Du)
Thu sang nắng úa trên cành
Lá vàng lay động, gió lành lướt qua
Bên trời góc bể sương sa
Hồn thu dịu dàng, mơ màng sắc màu.

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2024

CỐ NHÀ THƠ LÊ ĐẠT: “NHÀ PHU CHỮ” NÓI VỀ NGHỀ THƠ

 

💕 NHÀ THƠ LÊ ĐẠT: “NHÀ PHU CHỮ” NÓI VỀ NGHỀ THƠ

Cố nhà thơ Lê Đạt từng tâm sự: “Ngay từ nhỏ, tôi đã ôm ấp mộng cách tân thơ Việt - lẽ dĩ nhiên lúc đó tôi không ý thức được rõ rệt nên cách tân như thế nào. Sau Cách mạng tháng 8, nhà thơ ảnh hưởng đến tôi nhiều nhất là nhà thơ Xô - Viết Mayakovsky. Tôi thích những hình ảnh quả đấm hết sức táo bạo cũng như những bài thơ quảng trường mạnh mẽ tham gia trực tiếp vào quá trình thay đổi xã hội của ông, ảnh hưởng của Maya rất đậm nét trong những bài thơ đầu tiên của tôi

Mở đầu cuộc cách tân thơ,  Lê Đạt khác đã dành hết tâm sức của mình cho một cuộc chơi mới, cuộc chơi của một nhà - phu - chữ như cách dùng từ của Lê Đạt. Trong bài thơ Bóng chữ, một bài đặc trưng cho phong cách Lê Đạt, cái cảm xúc trữ tình của thơ tiền chiến đã được chuyển hoá sang một dạng trữ tình khác, nó không dạt dào, sướt mướt ở bề mặt chữ, nó khơi gợi sự âm vang bất ngờ từ bề sâu của một cảm xúc, một suy tư:”Chia xa rồi anh mới thấy emNhư một thời thơ thiếu nhỏEm về trắng đầy cong khung nhớMưa mấy mùa mây mấy độ thuVườn thức một mùi hoa đi vắngEm vẫn đây mà em ở đâuChiều Âu Lâubóng chữ động chân cầu”. Câu kết của bài thơ mang trong nội hàm của chữ một dư âm mới, qua bài thơ này, chiều Âu Lâu không còn là một địa danh trữ tình của riêng nhà thơ nữa khi bóng chiều, bóng chữ hay bóng người tình xưa còn đang vang động ở phía chân cầu của ký ức vì khu vườn xưa vẫn thức một mùi hoa đi vắng mặc dù mưa đã mấy mùa và mây mấy độ thu.

KHƠI DẬY SỰ SỐNG ĐỘNG CỦA CẢM XÚC VÀ TRÍ TƯỞNG TƯỢNG

Lê Đạt là một thi sĩ dày công chăm bón chữ nghĩa, tôi có cảm giác trước khi gieo trồng mỗi câu thơ của mình, ông làm chữ kỹ càng tới mức “xới đất, lật cỏ” như một nông phu cần mẫn làm đất chuẩn bị mọi thứ cho một vụ mùa gieo trồng mới của họ. Nhưng khác với công việc cày ải, gieo trồng của các nông phu, công đoạn làm chữ của một nhà thơ theo kiểu phu - chữ luôn cần tới một tố chất thiên bẩm khác, đó là khả năng khơi dậy sự sống động của cảm xúc và trí tưởng tượng từ những con chữ vô tri vô giác theo một cấu trúc ngôn ngữ thơ: “Anh tìm về địa chỉ tuổi thơNhà số lẻphố trò chơi bỏ dởMộng anh hường tìm môi em bói đỏGiàn trầu giàkhua /những át cơ rơi”. Bài thơ Át cơ nói trên của Lê Đạt ngay từ khi mới công bố đã gây nhiều tranh cãi khác nhau, nhưng bất luận thế nào thì mọi người cũng thống nhất đây là một bài thơ hay. Cái hay của nó không chỉ bởi sự liên tưởng của nhiều hình ảnh lạ xuất hiện trong một bài thơ rất ngắn, cái hay của nó còn nằm ở kỹ năng chơi chữ rất tài hoa và tinh tế kiểu Lê Đạt, đã khiến cho mỗi người đọc bài thơ lại nhận thấy có một tâm tưởng khác, một cảm hứng khác,  một khung trời khác sau những câu thơ mang vẻ đẹp bí ẩn nói trên.

   Với Lê Đạt, nhiều người đọc đã rung động trước một lời tâm sự khá nổi tiếng của ông. “Một nhà thơ sắp già báo trước một người đàn bà chưa hết trẻ”: “Anh bảo đảm không làm phiền em cõi đời, không dám hứa không làm phiền em cõi chữ, ở đó hai ta đều bất lực”- Thơ là kết quả của sự làm phiền đó chăng”. Nếu coi chiếc áo dài truyền thống của thơ là vẻ đẹp quến rũ của lục bát - ca dao thì phải chăng đẹp vẻ khêu gợi một cá tính của bộ váy áo âu - tây mát mẻ chính là đường nét của thơ hiện sinh. Theo tôi, Lê Đạt là một nhà chủ động cách tân nhằm hiện - sinh - hóa những mảnh rời của hiện thực theo kiểu những bài thơ Hai-kâu sau đây của ông: “Tình sét đánh má đồi môi bão ậpYêu một liều xuân bất chấp thu lôi” (Thu lôi); “Tàu đắm hẹn bội thề lênh láng biển/ Trăng tình bờ mộng thải nhiễm ô mơ”(Ô nhiễm); “Em tình tựa cơ may phường ảo số/ Mỗi ngả đường e cửa ngõ Tạm Thương” (Ngõ Tạm Thương);“Rượu nổ má bừng cỗ xuân ầm ã/Mâm một tình mời ăn vã cô đơn” (Cỗ xuân).

Tôi nhất quyết rằng, những bài thơ trên đây là một kiểu “đố chữ” rất tài tình, lý thú của Lê Đạt (khi tên của bài thơ nằm ngay trong 2 câu thơ) và nếu như tác giả giấu tên thật của mỗi bài thơ Hai-kâu thì người đọc khó mà đoán đúng được ý đồ đặt tên bài thơ của tác giả. Kiểu thơ Hai-kâu này cho thấy nhà thơ đã dày công tìm tòi nhiều cách chơi chữ rất kỳ ảo và biến hóa, nó nén lại cả một năng lượng thẩm mỹ chỉ trong hai câu thơ ngắn và đây là một hướng cách tân thơ rất hiện đại của nhà phu - chữ - thơ (theo cách gọi của Lê Đạt).

SỰ UYÊN BÁC TINH TẾ CỦA THÚ CHƠI CHỮ TRONG THƠ CA

Luận bàn về thú chơi chữ trong thơ, Lê Đạt từng khẳng định trong Đường chữ: “Người làm thơ chơi những phép tu từ như một thứ bẫy vô thức. Anh ta sinh sự với ngữ nghĩa và ngữ pháp để tạo ra một sự sinh mới cho thơ. Người làm thơ rắp tâm biến ngôn ngữ tiêu dùng thành một thứ ngôn ngữ trò chơi (hiểu theo nghĩa mạnh) trong một trạng thái nửa tỉnh nửa mơ mà Roland Barthes gọi là một sự chú ý bồng bênh (attention flottante). Chính cái trò chơi hết mình này khiến Freud coi các nghệ sĩ như một thứ trẻ con lớn tuổi có khả năng đánh thức bản năng trò chơi của độc giả. Người chơi chữ dễ dàng được coi là người thông minh, chơi như vậy là chơi đùa. Nhà nghệ sĩ cũng như đứa trẻ không chơi đùa mà chơi, thật khiến trò chơi chữ không còn là một trò chơi đơn thuần dựa trên óc thông minh của một người tỉnh táo mà dựa trên toàn bộ trí năng cũng như cảm năng của một kẻ đam mê bị thánh ốp trong một cơn thượng đồng của chữ”. Thiết nghĩ, bàn về sự chơi chữ trong thơ đến thấu đáo như vậy thì cũng đã đủ cho chúng ta thấy Lê Đạt uyên bác và tinh tế trong cách dùng chữ nghĩa như thế nào.

Sau Bóng chữ, Lê Đạt đã dành gần 200 trang thơ trong tập Ngó lời (NXB Văn học,1997) để trình bày một cuộc chơi mới của mình với gần 300 bài thơ viết theo kiểu thơ Hai-kâu (đồng dạng với kiểu thơ Hai - cư của Nhật Bản). So với những cách tân quyết liệt của Trần Dần thì Lê Đạt đi theo một hướng khác, ông cố gắng đưa ra một hệ thống mỹ cảm mới trong sự cách điệu những con chữ mà bài thơ Quan họ sau đây là một ví dụ điển hình: “Tóc trắng tầm xanh qua cầu với gióĐùi bãi ngô non /ngo ngó sông đầyCây gạo giàlơi tình /lên hiệu đỏLa lả cành/ cởi thắm / để hoa bayEm về nói làm sao với mẹEm trường nét gốm thon bình cổ đạiMình Lưỡng Hà/thoai thoảivú Đông Sơnước gìnhỏ đấy bằng con giốngBỏ túi đi cùng/ ta phố bông tình bông”.

 Ở bài thơ trên, nhịp thơ vẫn cũ nhưng hình ảnh và âm điệu thơ đã mới rất nhiều. Cái hình tượng: Đùi bãi ngô non ngo ngó sông đầy là một phát hiện mới rất Lê Đạt về mặt mỹ cảm và không chỉ xuất hiện một lần, ngay trong đoạn thơ sau đó, ông lại múa bút vẽ những nét xuất thần để độc giả thơ được thấy: Em trường nét gốm thon bình cổ đại/ Mình Lưỡng hà thoai thoải vú Đông Sơn. Cái đẹp rung động này mang hơi thở ngàn năm của đất đai, sông núi và mãi trường tồn như ngàn khúc dân ca miền Kinh Bắc. Đây là một bài thơ đặc sắc viết về Quan họ với cách nhìn rất mới của Lê Đạt khi âm điệu câu thơ dường như còn nhấn nhá, ngân nga theo nhịp hát Quan họ: Cây gạo già lơi tình lên hiệu đỏ/ La lả cành cởi thắm để hoa bay, nhưng hình ảnh bao trùm lên toàn bộ bài thơ là một không gian đầy sức sống của vẻ đẹp phồn sinh đang hiện hữu trong từng câu chữ.

 Trong một lần trao đổi với tôi về thi ca cách tân, nhà thơ Lê Đạt cho biết: “Một nhà thơ nước ngoài đã nói: ‘Khi ngôn ngữ thơ là hình ảnh, nó trói buộc ta trong một nhà tù rất ghê gớm và thoát ra khỏi nhà tù ấy là bước đầu tiên đã dám đổi mới, ta dám sống mới’. Điều ấy quan trọng lắm và tôi cho rằng cách tân đó là quan trọng nhất. Vì những câu thơ hay bao giờ cũng xuất phát từ cách nhìn mới, bởi hiện tượng chính là tự nhiên cùng với cách quan sát về nó, nên thay đổi cách nhìn là điều quan trọng nhất đối với một nhà thơ. Trong thơ của tôi, ngoài phần thơ hai-kâu còn thêm phần đoản ngôn rất mới và là một hình thức suy nghĩ ngắn gọn về nghệ thuật và cách ứng xử trong cuộc đời. Thể thơ đoản ngôn này thoải mái hơn thể thơ hai-kâu vì nó viết theo kiểu thơ văn xuôi”. Cũng theo nhà thơ Lê Đạt “Điều cốt lõi quan trọng nhất đối với nghề thơ là phải lao động thơ một cách cần mẫn và không ngừng nâng cao văn hóa. Các nhà thơ cần phải cố gắng hơn nữa để cho độc giả thơ chấp nhận mình. Trong động tác chân tôi ghét nhất là dậm chân tại chỗ vì nó đi mà vẫn đứng; trong mọi thứ phải vội thì không nên vội khi làm chữ và khi tự tử”

https://cand.com.vn/Tu-lieu-van-hoa/nha-tho-le-dat-nha-phu-chu-noi-ve-nghe-tho-i733635/