Thứ Tư, 26 tháng 6, 2019

PHÁT BIỂU CỦA GV TRONG LỄ TRI ÂN CỦA HS NĂM HỌC 2018-2019


Kính thưa quý đại biểu, kính thưa cô Nguyễn Thị Thúy Ba – HT nhà trường, kính thưa quý đồng nghiệp, quý phụ huynh cùng toàn thể học sinh yêu mến!
Cách đây 3 năm, cánh cổng trường Nguyễn Trãi mở rộng để đón chào các em, sân trường trải đầy nắng thu, nâng nhẹ bước chân các em, thầy cô giang rộng vòng tay đón các em và đưa các em đi vào con đường tri thức. Tiếng trống trường giòn giã ngày khai giảng năm ấy như muốn động viên các em hãy cố gắng miệt mài kinh sử để thành người hữu ích.
Thắm thoát mà đã 3 ba năm, thời gian cứ lao đi về phía trước, không đợi chờ một ai. Hôm nay, các em còn một dịp cuối, tề tựu nơi đây, để ôn lại những kỉ niệm tuổi học trò. Rồi ngày mai đây, các em chính thức rời xa vòng tay của thầy cô, bạn bè và rời xa mái trường Nguyễn Trãi. Và cũng từ hôm nay, các em đã thật sự trưởng thành, các em thật sự bước vào xã hội đầy chong gai, thử thách. Các em phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc đời, về tương lai của mình.
Các em học sinh thương yêu. Tất cả những thầy cô đang có mặt trong thời khắc thiêng liêng này – thời khắc được chứng kiến sự trưởng thành khôn lớn của các em - rất hạnh phúc, rất vui mừng vì được nghe những lời tri ân chân thành xuất phát tự tấm lòng của các em.
Cũng như cha mẹ các em, thầy cô rất mong các em được nên người. Cha mẹ không ngại nắng mưa kiếm tiền để cho các em có điều kiện ăn học, thầy cô không ngại ngày đêm đưa các em đến với bến bờ tri thức. Nhưng có những lúc các em làm cho thầy cô buồn. Hôm nay, các em đã nhận ra được điều đó, thầy cô rất vui vì các em thật sự trưởng thành. Thầy cô không giận các em đâu, vẫn yêu thương các em, dù các em tung bay đến chân trời nào, trong công việc nào. Thầy cô chúc các em bước vào môi trường mới thật thành công, đứng vững được trên đôi chân của mình, tiếp nối và làm rạng rỡ truyền thống vẻ vang của ngôi trường Nguyễn Trãi trong hơn 50 năm qua. Đó là cách các em tri ân thầy cô thiết thực nhất.
Các em học sinh thương yêu. Cuộc đời là những cuộc hợp – tan. Ba năm trước, chúng ta có duyên gặp nhau. Ba năm sau, tức bây giờ, chúng ta phải nói lời chia tay. Thầy mong rằng hình ảnh ngôi trường này, hình ảnh thầy cô, bạn bè này, mãi mãi theo các em, làm động lực cho các em phấn đấu.
Được nói lời dặn dò các em, thầy xin nhắc nhở các em những vấn đề sau:
- Thứ nhất, các em phải tự tin, có ý chí, quyết tâm trong học tập hay trong công việc. Có được phẩm chất đó các em sẽ thành công. Trong kì thi THPTQG đang tới gần, các em phải tự tin để có kết quả thi tốt nhất; tự tin tung cánh đến chân trời tri thức mới khi rời ra mái trường phổ thông chứa chan kỉ niệm.
- Thứ hai, các em phải trở thành người tử tế. Tử tế chính với bản thân mình bằng cách tạo cho mình một tương lai tốt đẹp. Tử tế với những người thân trong gia đình, phải biết yêu thương ông bà, cha mẹ, anh chị em; đừng để họ phải lo lắng, khổ đau vì mình. Tử tế với mọi người, với cộng đồng; sống có trách nhiệm với xã hội, không phản bội truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Thứ ba, hôm nay các em được ngồi ở đây để tri ân thầy cô, ba mẹ; thầy mong các em ghi nhớ rằng, nhà trường là một bệ phóng, gia đình là một bệ phóng, khi các em bay lên cao, các em hãy luôn nhớ tới bệ phóng ấy. Thầy mong các em hãy chiêm nghiệm ra một điều rằng: Khi ta ở chỉ là nơi đất ở, khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn.
- Thứ tư, cuộc đời ngoài kia nhiều chông gai, thử thách lắm, các em phải vững vàng làm chủ bản thân mình, nếu có vấp ngã hãy nhanh chóng đứng lên và hãy nhìn lại để rút ra bài học cho bản thân mình. Thầy tin rằng các em sẽ làm được điều đó để trở thành công dân có ích sau này.
Lời cuối, thầy chúc các em gặt được thành công trong kì thi sắp tới để từ đó tiến xa hơn nữa … Thầy cô vẫn luôn yêu thương các em.
Xin trân trọng kính chào.



Thứ Hai, 10 tháng 12, 2018

NÉT KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC QUA TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

NÉT KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC QUA TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
http://vannghedanang.org.vn/nonnuoc/chitiet.php?id=555&so=21
Nguyễn Thị Thu Thủy
Con nghe Bác tưởng nghe lời non nước
Tiếng của ngày xưa và cả tiếng mai sau
Tố Hữu
Đã sáu mươi lăm năm trôi qua nhưng lời Bác đọc Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình dường như vẫn còn vọng mãi. Chất giọng trầm ấm, chậm rãi vang vang trong buổi sáng mùa thu rực nắng trước hàng triệu quốc dân đồng bào có sức thu hút một cách kì lạ. Bởi trong giờ phút trọng đại đó, Bác đã tuyên bố chấm dứt chế độ thuộc địa phong kiến ở nước ta và mở ra kỉ nguyên độc lập tự do của dân tộc. Tuyên ngôn độc lập không chỉ có giá trị lịch sử, giá trị pháp lý mà còn có giá trị văn chương. Với kết cấu mạch lạc, văn phong, khúc chiết, tác phẩm đã thể hiện sự kế thừa và sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc so với các văn bản tuyên bố độc lập dân tộc trong văn học trung đại.
 Văn kiện lịch sử này không phải chỉ được đọc trước quốc dân đồng bào mà còn trước thế giới, đặc biệt là trước bọn đế quốc thực dân đang chuẩn bị tái chiếm nước ta. Mặt khác, tại thời điểm này thực dân Pháp tuyên bố: Đông Dương là đất bảo hộcủa người Pháp bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đã đầu hàng, vậy Đông Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp. Bản tuyên ngôn đã dứt khoát bác bỏ những luận điểm đó. Vì vậy đối tượng hướng tới của văn bản này, không chỉ là hai mươi triệu đồng bào Việt Nam để khẳng định quyền độc lập dân tộc, nhân dân tiến bộ thế giới để tranh thủ sự ủng hộ mà còn hướng đến bọn đế quốc: Anh, Pháp, Mỹ nhằm ngăn chặn mọi âm mưu xâm lược của chúng.
Tuyên ngôn độc lập là bản hùng ca của thời đại mới bởi nó đã kế thừa và phát triển bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Mặc dù hai tác phẩm trên được ví như những bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm của quân dân Đại Việt song văn bản của Hồ Chí Minh mới là một Tuyên ngôn độc lập đúng nghĩa. Bởi tác phẩm có lối viết ngắn gọn, hàm súc đầy sức thuyết phục, lập luận chặt chẽ, lời văn hùng hồn. Tiếp cận Tuyên ngôn độc lậptrên cơ sở so sánh nét tiếp thu và sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc so với các văn bản trên nhằm thấy được những đặc sắc trong phong cách văn chính luận của Bác.
Như thông thường, tác phẩm cũng gồm ba phần; phần mở đầu tác giả đã tạo được cơ sở pháp lý và chính nghĩa cho Tuyên ngôn độc lập. Nếu ở Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt vào đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép: Nam quốc sơn hà Nam đế cư (sông núi nước Nam vua Nam ở); trong Bình ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã khẳng định một chân lý lịch sử: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo thì Tuyên ngôn độc lập mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nói nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn của thế giới. Câu thứ nhất được trích từ Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Câu thứ hai được rút ra từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền Cách mạng Pháp năm 1791: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đây là một dụng ý chiến lược và chiến thuật của Bác. Người muốn dùng lời của ông cha người Pháp và người Mỹ để đập vào lưng của con cháu họ, dùng cây gậy độc lập tự do đánh vào lưng những kẻ thù của độc lập tự do. Nếu câu mở đầu của Nam quốc sơn hà là lời khẳng định chủ quyền dân tộc, mở đầu của Bình Ngô đại cáo là một triết lí nhân nghĩa gắn với an dân thì mở đầu của Tuyên ngôn độc lập là một lời tranh luận ngầm nhằm lột tẩy những mưu mô thủ đoạn của bọn thực dân. Cách trích dẫn ấy vừa tạo được cơ sở vững chắc cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, vừa sảng khoái niềm tự hào dân tộc. Như ngày xưa Nguyễn Trãi đã từng viết: Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập – Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương nhằm đặt ngang hàng các triều đại nước Việt với các triều đại Trung Hoa cổ. Lý Thường Kiệt đã từng cho quân sĩ nấp vào đền Trương Hống, Trương Hán bên sông Như Nguyệt để đọc lên lời sấm:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Như đẳng hành khan thủ bại hư.
Tạm dịch: Sông núi nước Nam, vua Nam
Rành rành định phận, ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Nguyễn Ái Quốc muốn đặt ba cuộc Cách mạng tư sản ở Mỹ năm 1776, Cách mạng tư sản năm 1791 và Cách mạng tháng tám năm 1945 của dân tộc Việt Nam trong vị thế ngang bằng nhau. Đây cũng chính là một nét kế thừa sáng tạo cách làm của các vị tiền bối.
Trong phần mở đầu, ngoài việc trích dẫn lời lẽ của hai bản Tuyên ngôn độc lập trên, Bác còn thể hiện một tư duy đầy biến hóa và sáng tạo qua luận điểm suy rộng ra: Tất cả các dân tộc đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Ở đây, Bác đã nâng từ quyền con người lên thành quyền dân tộc, từ vấn đề nhân quyền, vấn đề quyền cá nhân lên thành quyền của mọi dân tộc bị áp bức trên thế giới. Một nhà văn hóa nước ngoài đã viết: Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình.
Phần giữa của Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã thiết lập cơ sở thực tế cho văn bản bằng việc đưa dẫn chứng cụ thể để tố cáo tội ác giặc Pháp và nêu cao cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc ta. Ở phần này, Hồ Chí Minh đã thể hiện nét tương đồng với Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi. Ức Trai tiên sinh đã từng vạch tội giặc Minh mượn gió bẻ măng, lợi dung thời cơ phù Trần diệt Hồ để thôn tính nước ta: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà - Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa. Trong tác phẩm của mình, Bác đã dùng lập luận bác bỏ để vạch trần năm tội ác về chính trị, bốn tội ác về kinh tế của thực dân Pháp. Nếu nước mẹPháp đưa ra chiêu bài bảo hộ thì Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ: Trong năm năm, chúng bán nước ta cho Nhật… Năm xưa, Nguyễn Trãi đã khái quát lại tội ác tày trời và chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Ngô qua hai câu thơ: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.  Tuyên ngôn độc lập, với văn phong đĩnh đạc, giàu tính luận chiến, Bác đã viết: Chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Với cách lặp kết cấu cú pháp, điệp ngữ “chúng”, kết cấu song hành, tăng tiến,Tuyên ngôn độc lập là bản tuyên cáo chi tiết những hành động tham tàn bạo ngược của giặc Tây trên đất nước Việt Nam. Đặc biệt, ở Tuyên ngôn độc lập, với những dẫn chứng, số liệu cụ thể, bằng ngòi bút giàu sức chiến đấu, Nguyễn Ái Quốc còn vạch rõ thủ đoạn thâm độc của chính sách ngu dân, cai trị dân tộc Việt Nam bằng rượu và thuốc phiện, lập nhà tù nhiều hơn trường học. Nước Pháp ở thời điểm này đang rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế; thay vì đổ xuống biển hàng tấn rượu thì bọn thực dân đã mở rộng khai thác thuộc địa sang các nước Đông Dương và biến các nước này trở thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa của chúng. Vì vậy chúng cấm người dân Việt Nam không được nấu rượu bằng các sản vật địa phương như gạo, mía, sắn mà phải dùng rượu Pháp. Trở lại những năm ba mươi của thế kỷ hai mươi, ta mới thấy hết được không khí ngột ngạt, đau khổ của thôn xóm Việt Nam. Khắp nơi , bọn tay sai phong kiến và thực dân Pháp truy tìm, bắt bớ bỏ tù hàng ngàn người dân vì tội nấu “rượu lậu”. Bên cạnh đó, bọn chúng cho phép các tiệm hút được mở công khai ở Hà Nội, Hải Phòng nhằm làm suy nhược sức khỏe và băng hoại ý chí đấu tranh của tầng lớp thanh niên ta. Lên án âm mưu thâm độc này, trong Tuyên ngôn độc lập, Bác viết: Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Ở truyện ngắn Vi hành, qua lời thư gửi người em họ, tác giả đã trực tiếp lên án tội lỗi của vua Khải Định thừa lệnh quan thầy Pháp đầu độc nhân dân ta bằng rượu và thuốc phiện đưa họ vào vòng đói khổ: Tôi không được rõ ý đồ nhà vi hành của chúng ta ra sao? Phải chăng là ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là A-lêch-xăng Đệ nhất có được sung sướng, có được uống nhiều rượu và được hút nhiều thuốc phiện bằng dân Nam, dưới quyền ngự trị của ngài hay không? Bên cạnh việc sử dụng lập luận bác bỏ và những dẫn chứng xác thực để tố cáo tội ác kẻ thù, Nguyễn Ái Quốc còn đưa ra những số liệu cụ thể, thời gian chính xác về các cuộc đấu tranh giành hòa bình của dân ta. Đây là những cơ sở thực tế vững chắc, chứng cứ hùng hồn để đập tan lời lẽ của bọn thực dân là nhờ phe Đồng minh chiến thắng phe Phát xít nên Nhật đầu hàng, dân ta mới giành độc lập: Sự thật là mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải tay Pháp. Để có được thắng lợi vĩ đại đó, ta phải đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt thậm chí xương máu của hàng triệu liệt sĩ. Điệp ngữ “ sự thật là” vang lên một cách sảng khoái khiến trái tim của hàng triệu dân náo nức, mê say. Trong Nam quốc sơn hà, nhà thơ vị tướng đời Lý đã hùng hồn lên tiếng: Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm – Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. Trong Tuyên ngôn độc lập, Bác đã ngợi ca thái độ khoan hồng và nhân đạo của người dân đất Việt: Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản cho họ. Tinh thần nhân nghĩa đó vốn xuất hiện từ lâu trong đạo lý dân tộc: Đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại. Trong truyện cổ dân gian, khi nghe Thạch Sanh đàn, quân giặc rụng rời chân tay và xin hàng. Trước khi chúng về nước, Thạch Sanh không chỉ tha bổng mà còn cấp cho chúng niêu cơm “ăn mãi không hết”... Truyền thống ấy đặc biệt được kết tinh trong trang viết của Nguyễn Trãi: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn – Lấy chí nhân mà thay cường bạo. Tư tưởng nhân nghĩa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong Bình Ngô đại cáo và cuộc đấu tranh chống quân Minh của quân dân Đại Việt. Sau khi giặc đầu hàng, lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn đã có những hành động hết sức cao thượng: Mã Kì, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà hồn bay phách lạc – Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà tim đập chân run. Sự thảm hại của kẻ thù vừa làm tôn lên khí thế hào hùng của nghĩa quân đồng thời càng làm nổi bật tính chất chính nghĩa, nhân đạo sáng ngời của cuộc kháng chiến chống quân Ngô thuở nào.
Như vậy ở phần hai, Bác đã xác lập một nền tảng vững chắc cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam. Độc lập tự do mãi mãi là khát vọng cháy bỏng của mỗi một con người trên dải đất cong cong hình chữ S này: Tự do đã nở hoa hồng – Trong dòng máu đỏ, trên đồng Việt Nam. Lời kết thúc Bình Ngô đại cáo với sự hòa quyện giữa cảm hứng độc lập và cảm hứng vũ trụ, Ức Trai tiên sinh trịnh trọng tuyên bố nền độc lập tự do: Xã tắc từ nay vững bền – Giang san từ đây đổi mới – Càn khôn bỉ mà lại thái – Nhật nguyệt hối mà lại minh – Muôn thuở nền thái bình vững chắc – Ngàn năm, vết nhục nhã sạch làu.  Tuyên ngôn độc lập, trước khi công bố quyền được hưởng tự do độc lập một cách xứng đáng của dân tộc ta, Hồ Chí Minh đã tuyên bố thoát lí mọi quan hệ với thực dân, xóa bỏ mọi hiệp ước, mọi quyền lợi của Pháp trên đất nước Việt Nam. Đây là một việc làm vô cùng có ý nghĩa. Để thiết lập một đất nước Việt Nam mới và mở ra một kỉ nguyên độc lập tự do của đất nước, ta phải xóa bỏ mọi ràng buộc, mọi mối quan hệ với thực dân Pháp, phải đập tan mọi luận điệu của Đờ Gôn (tướng Pháp) và bọn thực dân phản động Pháp đang âm mưu tái chiếm Đông Dương: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Đoạn văn gồm ba ý, xây dựng theo lối tăng cấp: quyền hưởng tự do độc lập của dân tộc, hưởng tự do độc lập là sự thực, quyết tâm giữ vững độc lập tự do bằng mọi giá của con người Việt Nam. Đây là lời tuyên bố hào hùng, là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu dân(Trần Dân Tiên). Chính Hồ Chí Minh đã tự đánh giá tác phẩm là một thành công khiến Người cảm thấy sung sướng trong cả cuộc đời viết văn, làm báo đầy kinh nghiệm của mình.
Về tổng thể, Tuyên ngôn độc lập có điểm tương đồng giữa các phần như Bình Ngô đại cáo song bố cục ngắn gọn và chặt chẽ hơn. Nếu hai tác phẩm trên sáng tác theo các thể thơ văn cổ Trung đại thì Tuyên ngôn độc lập viết theo phong cách văn chính luận hiện đại với lập luận sắc sảo, bằng chứng rõ ràng, hình ảnh gợi cảm, ngôn từ chính xác, kết hợp sâu sắc giữa văn học và chính trị, kế thừa và phát triển. Tính đến hôm nay tác phẩm sắp bước vào tuổi thất thập cổ lai hy song nó vẫn còn giá trị bền vững với chúng ta. Mọi vật đều sợ thời gian bởi thời gian sẽ phủ mờ lên tất cả, song thời gian lại sợ các vĩ nhân bởi sự tồn tại của các vĩ nhân là trường cửu. Đó là trường hợp của Bác và sự nghiệp văn chính luận của Người, trong đó có Tuyên ngôn độc lập. Tìm hiểu tác phẩm của Bác ta hiểu hơn tầm văn hóa, chiến lược của một vị lãnh tụ trong việc phát huy quan điểm dùng văn chương làm vũ khí phục vụ Cách mạng.
Mỗi lần nghe lại tiếng Bác đọc Tuyên ngôn độc lập, chúng ta lại bồi hồi xúc động. Lời Bác như vẫn còn đâu đây nhắc nhở cháu con đất Việt không ngừng phấn đấu bảo vệ chủ quyền dân tộc, xây dựng đất nước sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
N.T.T.T


Thứ Ba, 21 tháng 8, 2018

SO SÁNH 3 BẢN TUYÊN NGÔN CỦA VIỆT NAM

NÉT KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC QUA TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP http://vannghedanang.org.vn/nonnuoc/chitiet.php?id=555&so=21 Nguyễn Thị Thu Thủy Con nghe Bác tưởng nghe lời non nước Tiếng của ngày xưa và cả tiếng mai sau Tố Hữu Đã sáu mươi lăm năm trôi qua nhưng lời Bác đọc Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình dường như vẫn còn vọng mãi. Chất giọng trầm ấm, chậm rãi vang vang trong buổi sáng mùa thu rực nắng trước hàng triệu quốc dân đồng bào có sức thu hút một cách kì lạ. Bởi trong giờ phút trọng đại đó, Bác đã tuyên bố chấm dứt chế độ thuộc địa phong kiến ở nước ta và mở ra kỉ nguyên độc lập tự do của dân tộc. Tuyên ngôn độc lập không chỉ có giá trị lịch sử, giá trị pháp lý mà còn có giá trị văn chương. Với kết cấu mạch lạc, văn phong, khúc chiết, tác phẩm đã thể hiện sự kế thừa và sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc so với các văn bản tuyên bố độc lập dân tộc trong văn học trung đại. Văn kiện lịch sử này không phải chỉ được đọc trước quốc dân đồng bào mà còn trước thế giới, đặc biệt là trước bọn đế quốc thực dân đang chuẩn bị tái chiếm nước ta. Mặt khác, tại thời điểm này thực dân Pháp tuyên bố: Đông Dương là đất bảo hộcủa người Pháp bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đã đầu hàng, vậy Đông Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp. Bản tuyên ngôn đã dứt khoát bác bỏ những luận điểm đó. Vì vậy đối tượng hướng tới của văn bản này, không chỉ là hai mươi triệu đồng bào Việt Nam để khẳng định quyền độc lập dân tộc, nhân dân tiến bộ thế giới để tranh thủ sự ủng hộ mà còn hướng đến bọn đế quốc: Anh, Pháp, Mỹ nhằm ngăn chặn mọi âm mưu xâm lược của chúng. Tuyên ngôn độc lập là bản hùng ca của thời đại mới bởi nó đã kế thừa và phát triển bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Mặc dù hai tác phẩm trên được ví như những bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm của quân dân Đại Việt song văn bản của Hồ Chí Minh mới là một Tuyên ngôn độc lập đúng nghĩa. Bởi tác phẩm có lối viết ngắn gọn, hàm súc đầy sức thuyết phục, lập luận chặt chẽ, lời văn hùng hồn. Tiếp cận Tuyên ngôn độc lậptrên cơ sở so sánh nét tiếp thu và sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc so với các văn bản trên nhằm thấy được những đặc sắc trong phong cách văn chính luận của Bác. Như thông thường, tác phẩm cũng gồm ba phần; phần mở đầu tác giả đã tạo được cơ sở pháp lý và chính nghĩa cho Tuyên ngôn độc lập. Nếu ở Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt vào đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép: Nam quốc sơn hà Nam đế cư (sông núi nước Nam vua Nam ở); trong Bình ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã khẳng định một chân lý lịch sử: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo thì Tuyên ngôn độc lập mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nói nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn của thế giới. Câu thứ nhất được trích từ Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Câu thứ hai được rút ra từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền Cách mạng Pháp năm 1791: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đây là một dụng ý chiến lược và chiến thuật của Bác. Người muốn dùng lời của ông cha người Pháp và người Mỹ để đập vào lưng của con cháu họ, dùng cây gậy độc lập tự do đánh vào lưng những kẻ thù của độc lập tự do. Nếu câu mở đầu của Nam quốc sơn hà là lời khẳng định chủ quyền dân tộc, mở đầu của Bình Ngô đại cáo là một triết lí nhân nghĩa gắn với an dân thì mở đầu của Tuyên ngôn độc lập là một lời tranh luận ngầm nhằm lột tẩy những mưu mô thủ đoạn của bọn thực dân. Cách trích dẫn ấy vừa tạo được cơ sở vững chắc cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, vừa sảng khoái niềm tự hào dân tộc. Như ngày xưa Nguyễn Trãi đã từng viết: Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập – Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương nhằm đặt ngang hàng các triều đại nước Việt với các triều đại Trung Hoa cổ. Lý Thường Kiệt đã từng cho quân sĩ nấp vào đền Trương Hống, Trương Hán bên sông Như Nguyệt để đọc lên lời sấm: Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Như đẳng hành khan thủ bại hư. Tạm dịch: Sông núi nước Nam, vua Nam ở Rành rành định phận, ở sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. Nguyễn Ái Quốc muốn đặt ba cuộc Cách mạng tư sản ở Mỹ năm 1776, Cách mạng tư sản năm 1791 và Cách mạng tháng tám năm 1945 của dân tộc Việt Nam trong vị thế ngang bằng nhau. Đây cũng chính là một nét kế thừa sáng tạo cách làm của các vị tiền bối. Trong phần mở đầu, ngoài việc trích dẫn lời lẽ của hai bản Tuyên ngôn độc lập trên, Bác còn thể hiện một tư duy đầy biến hóa và sáng tạo qua luận điểm suy rộng ra: Tất cả các dân tộc đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Ở đây, Bác đã nâng từ quyền con người lên thành quyền dân tộc, từ vấn đề nhân quyền, vấn đề quyền cá nhân lên thành quyền của mọi dân tộc bị áp bức trên thế giới. Một nhà văn hóa nước ngoài đã viết: Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình. Phần giữa của Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã thiết lập cơ sở thực tế cho văn bản bằng việc đưa dẫn chứng cụ thể để tố cáo tội ác giặc Pháp và nêu cao cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc ta. Ở phần này, Hồ Chí Minh đã thể hiện nét tương đồng với Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi. Ức Trai tiên sinh đã từng vạch tội giặc Minh mượn gió bẻ măng, lợi dung thời cơ phù Trần diệt Hồ để thôn tính nước ta: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà - Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa. Trong tác phẩm của mình, Bác đã dùng lập luận bác bỏ để vạch trần năm tội ác về chính trị, bốn tội ác về kinh tế của thực dân Pháp. Nếu nước mẹPháp đưa ra chiêu bài bảo hộ thì Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ: Trong năm năm, chúng bán nước ta cho Nhật… Năm xưa, Nguyễn Trãi đã khái quát lại tội ác tày trời và chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Ngô qua hai câu thơ: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Ở Tuyên ngôn độc lập, với văn phong đĩnh đạc, giàu tính luận chiến, Bác đã viết: Chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Với cách lặp kết cấu cú pháp, điệp ngữ “chúng”, kết cấu song hành, tăng tiến,Tuyên ngôn độc lập là bản tuyên cáo chi tiết những hành động tham tàn bạo ngược của giặc Tây trên đất nước Việt Nam. Đặc biệt, ở Tuyên ngôn độc lập, với những dẫn chứng, số liệu cụ thể, bằng ngòi bút giàu sức chiến đấu, Nguyễn Ái Quốc còn vạch rõ thủ đoạn thâm độc của chính sách ngu dân, cai trị dân tộc Việt Nam bằng rượu và thuốc phiện, lập nhà tù nhiều hơn trường học. Nước Pháp ở thời điểm này đang rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế; thay vì đổ xuống biển hàng tấn rượu thì bọn thực dân đã mở rộng khai thác thuộc địa sang các nước Đông Dương và biến các nước này trở thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa của chúng. Vì vậy chúng cấm người dân Việt Nam không được nấu rượu bằng các sản vật địa phương như gạo, mía, sắn mà phải dùng rượu Pháp. Trở lại những năm ba mươi của thế kỷ hai mươi, ta mới thấy hết được không khí ngột ngạt, đau khổ của thôn xóm Việt Nam. Khắp nơi , bọn tay sai phong kiến và thực dân Pháp truy tìm, bắt bớ bỏ tù hàng ngàn người dân vì tội nấu “rượu lậu”. Bên cạnh đó, bọn chúng cho phép các tiệm hút được mở công khai ở Hà Nội, Hải Phòng nhằm làm suy nhược sức khỏe và băng hoại ý chí đấu tranh của tầng lớp thanh niên ta. Lên án âm mưu thâm độc này, trong Tuyên ngôn độc lập, Bác viết: Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược. Ở truyện ngắn Vi hành, qua lời thư gửi người em họ, tác giả đã trực tiếp lên án tội lỗi của vua Khải Định thừa lệnh quan thầy Pháp đầu độc nhân dân ta bằng rượu và thuốc phiện đưa họ vào vòng đói khổ: Tôi không được rõ ý đồ nhà vi hành của chúng ta ra sao? Phải chăng là ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là A-lêch-xăng Đệ nhất có được sung sướng, có được uống nhiều rượu và được hút nhiều thuốc phiện bằng dân Nam, dưới quyền ngự trị của ngài hay không? Bên cạnh việc sử dụng lập luận bác bỏ và những dẫn chứng xác thực để tố cáo tội ác kẻ thù, Nguyễn Ái Quốc còn đưa ra những số liệu cụ thể, thời gian chính xác về các cuộc đấu tranh giành hòa bình của dân ta. Đây là những cơ sở thực tế vững chắc, chứng cứ hùng hồn để đập tan lời lẽ của bọn thực dân là nhờ phe Đồng minh chiến thắng phe Phát xít nên Nhật đầu hàng, dân ta mới giành độc lập: Sự thật là mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải tay Pháp. Để có được thắng lợi vĩ đại đó, ta phải đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt thậm chí xương máu của hàng triệu liệt sĩ. Điệp ngữ “ sự thật là” vang lên một cách sảng khoái khiến trái tim của hàng triệu dân náo nức, mê say. Trong Nam quốc sơn hà, nhà thơ vị tướng đời Lý đã hùng hồn lên tiếng: Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm – Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. Trong Tuyên ngôn độc lập, Bác đã ngợi ca thái độ khoan hồng và nhân đạo của người dân đất Việt: Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản cho họ. Tinh thần nhân nghĩa đó vốn xuất hiện từ lâu trong đạo lý dân tộc: Đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại. Trong truyện cổ dân gian, khi nghe Thạch Sanh đàn, quân giặc rụng rời chân tay và xin hàng. Trước khi chúng về nước, Thạch Sanh không chỉ tha bổng mà còn cấp cho chúng niêu cơm “ăn mãi không hết”... Truyền thống ấy đặc biệt được kết tinh trong trang viết của Nguyễn Trãi: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn – Lấy chí nhân mà thay cường bạo. Tư tưởng nhân nghĩa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong Bình Ngô đại cáo và cuộc đấu tranh chống quân Minh của quân dân Đại Việt. Sau khi giặc đầu hàng, lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn đã có những hành động hết sức cao thượng: Mã Kì, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà hồn bay phách lạc – Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà tim đập chân run. Sự thảm hại của kẻ thù vừa làm tôn lên khí thế hào hùng của nghĩa quân đồng thời càng làm nổi bật tính chất chính nghĩa, nhân đạo sáng ngời của cuộc kháng chiến chống quân Ngô thuở nào. Như vậy ở phần hai, Bác đã xác lập một nền tảng vững chắc cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam. Độc lập tự do mãi mãi là khát vọng cháy bỏng của mỗi một con người trên dải đất cong cong hình chữ S này: Tự do đã nở hoa hồng – Trong dòng máu đỏ, trên đồng Việt Nam. Lời kết thúc Bình Ngô đại cáo với sự hòa quyện giữa cảm hứng độc lập và cảm hứng vũ trụ, Ức Trai tiên sinh trịnh trọng tuyên bố nền độc lập tự do: Xã tắc từ nay vững bền – Giang san từ đây đổi mới – Càn khôn bỉ mà lại thái – Nhật nguyệt hối mà lại minh – Muôn thuở nền thái bình vững chắc – Ngàn năm, vết nhục nhã sạch làu. Ở Tuyên ngôn độc lập, trước khi công bố quyền được hưởng tự do độc lập một cách xứng đáng của dân tộc ta, Hồ Chí Minh đã tuyên bố thoát lí mọi quan hệ với thực dân, xóa bỏ mọi hiệp ước, mọi quyền lợi của Pháp trên đất nước Việt Nam. Đây là một việc làm vô cùng có ý nghĩa. Để thiết lập một đất nước Việt Nam mới và mở ra một kỉ nguyên độc lập tự do của đất nước, ta phải xóa bỏ mọi ràng buộc, mọi mối quan hệ với thực dân Pháp, phải đập tan mọi luận điệu của Đờ Gôn (tướng Pháp) và bọn thực dân phản động Pháp đang âm mưu tái chiếm Đông Dương: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Đoạn văn gồm ba ý, xây dựng theo lối tăng cấp: quyền hưởng tự do độc lập của dân tộc, hưởng tự do độc lập là sự thực, quyết tâm giữ vững độc lập tự do bằng mọi giá của con người Việt Nam. Đây là lời tuyên bố hào hùng, là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu dân(Trần Dân Tiên). Chính Hồ Chí Minh đã tự đánh giá tác phẩm là một thành công khiến Người cảm thấy sung sướng trong cả cuộc đời viết văn, làm báo đầy kinh nghiệm của mình. Về tổng thể, Tuyên ngôn độc lập có điểm tương đồng giữa các phần như Bình Ngô đại cáo song bố cục ngắn gọn và chặt chẽ hơn. Nếu hai tác phẩm trên sáng tác theo các thể thơ văn cổ Trung đại thì Tuyên ngôn độc lập viết theo phong cách văn chính luận hiện đại với lập luận sắc sảo, bằng chứng rõ ràng, hình ảnh gợi cảm, ngôn từ chính xác, kết hợp sâu sắc giữa văn học và chính trị, kế thừa và phát triển. Tính đến hôm nay tác phẩm sắp bước vào tuổi thất thập cổ lai hy song nó vẫn còn giá trị bền vững với chúng ta. Mọi vật đều sợ thời gian bởi thời gian sẽ phủ mờ lên tất cả, song thời gian lại sợ các vĩ nhân bởi sự tồn tại của các vĩ nhân là trường cửu. Đó là trường hợp của Bác và sự nghiệp văn chính luận của Người, trong đó có Tuyên ngôn độc lập. Tìm hiểu tác phẩm của Bác ta hiểu hơn tầm văn hóa, chiến lược của một vị lãnh tụ trong việc phát huy quan điểm dùng văn chương làm vũ khí phục vụ Cách mạng. Mỗi lần nghe lại tiếng Bác đọc Tuyên ngôn độc lập, chúng ta lại bồi hồi xúc động. Lời Bác như vẫn còn đâu đây nhắc nhở cháu con đất Việt không ngừng phấn đấu bảo vệ chủ quyền dân tộc, xây dựng đất nước sánh vai cùng các cường quốc năm châu. N.T.T.T

Thứ Tư, 30 tháng 8, 2017

KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT NĂM HỌC 2017 – 2018

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TÂY NINH
   ___________________

KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT NĂM HỌC 2017 – 2018
Ngày thi: 3 tháng 6 năm 2017
Môn thi: NGỮ VĂN (Chuyên)
Thời gian làm bài: 150 phút (Không kể thời gian giao đề)
---------------------------------------
ĐỀ CHÍNH THỨC
(Đề thi có 01 trang, thí sinh không phải chép đề vào giấy thi)
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (2,0 điểm)
Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 2:
…Tuy nhiên, nhiều năm gần đây lễ hội không còn yên vui như xưa. Sau nhiều năm bị cấm triệt để vì bị coi là trò mê tín dị đoan, đến nay lễ hội được khôi phục, mở cửa hết cỡ, bất chấp lễ hội gì, hành lễ ra sao. Trong các lễ hội ấy những người trẻ tham gia nhiệt tình nhất, ăn thua nhất, “máu me” nhất.
…Ở hội Xuân Đỉnh (Hà Nội), họ vác cả kiệu thánh đâm nát kính chiếc xe hơi của một phụ nữ vô ý chắn đường bất chấp người này quỳ xuống lạy lục van xin. Ở lễ hội đền Trần, những người trẻ đạp lên đầu lên cổ nhau, giật cả bảo kiếm trên bàn thờ, rồi lấy tiền chà xát lên kiếm.
Kinh hoàng nhất là lễ hội chém lợn ở làng Ném Thượng (Bắc Ninh). Sau khi con lợn bị dây trói căng ra bốn phía, “đao phủ” chặt một nhát đứt đôi con lợn thì những người trẻ tranh nhau lấy tiền quết máu lợn.
Không hiểu khi chà xát tiền lên kiếm báu, lên máu lợn người ta nghĩ đến cái gì? Nghĩ đến công danh cho bản thân hay lợi lộc cho gia đình? Liệu có ai trong số họ nghĩ đến tội ác?
(Trích “Những người trẻ ở lễ hội”, Đoàn Lê Giang, www.tuoitre.vn, 7/3/2015) 
Câu 1. Anh/chị hãy nhận xét về thái độ của tác giả thể hiện trong đoạn trích?
Câu 2. Xác định một biện pháp tu từ và nêu tác dụng của biện pháp tu từ ấy trong đoạn văn sau: Không hiểu khi chà xát tiền lên kiếm báu, lên máu lợn người ta nghĩ đến cái gì? Nghĩ đến công danh cho bản thân hay lợi lộc cho gia đình? Liệu có ai trong số họ nghĩ đến tội ác?
II. PHẦN LÀM VĂN (8.0 điểm)
Câu 1 (3 điểm)
Hãy viết bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến: Trách nhiệm là yếu tố cơ bản cần phải có để xây dựng và phát triển nhân cách của mỗi con người.
Câu 2 (5 điểm)
            Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, trong bài “Việt Bắc”, Tố Hữu đã viết:
"Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng

Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?"
(“Việt Bắc” - Tố Hữu)
Những dòng thơ trên gợi cho anh/chị liên tưởng đến lời tâm sự của tác giả nào trong một bài thơ mà anh/chị đã học ở chương trình Ngữ văn lớp 9, tập một? Anh/chị hãy chỉ rõ điểm đồng điệu giữa ý thơ của Tố Hữu và tâm sự của nhà thơ đó. Hãy phân tích niềm tâm sự sâu kín của tác giả trong bài thơ anh/chị đã tìm được.
----------Hết---------
Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm
Họ và tên thí sinh………………………………..Số báo danh…………………………………

Chữ kí của cán bộ coi thi 1:……………………Chữ kí của cán bộ coi thi 2:………………….

Thứ Năm, 10 tháng 12, 2015

BÀI THƠ: NHỚ ƠN THẦY

Sân trường ngập vắng lặng
Bỗng tiếng ve ngân vang
Giật mình nhớ bâng khuâng
Giấc mơ tà áo trắng.


Thầy ơi con đã hiểu
Nhọc nhằn nặng vai thầy
Con học hành cố gắng
Trở thành người trò ngoan.


Bao nhiêu là bụi phấn
Là bấy nhiêu nỗi niềm
Bao nhiêu là nét chữ
Là bấy nhiêu công thầy.

Cơn gió vô tình thổi
Tóc thầy màu mây khói
Cho con vào tương lai
Sao chưa kể thầy ơi!


Con nhớ mãi ơn thầy
Dù năm tháng đi qua
Như hoa kia vẫn trắng
Tỏa hương thơm cho đời.

(Viết năm 2015 với bút danh NGUYỄN NHẬT ĐÔNG)


Thứ Tư, 9 tháng 12, 2015

BÀI THƠ: ĐẤT NƯỚC VÀ THƠ VĂN



Khi Bác đọc Tuyên ngôn

Nước ta được Độc lập

Dân tộc chưa trọn vui

Pháp dã tâm quay lại

Tái xâm lược nước ta.

 

Tuổi trẻ đất Hà thành

Lên đường giữ biên cương

Ôi đoàn quân Tây Tiến!

Rất hào hùng, hào hoa

Xứng danh lính cụ Hồ.

 

Ở miền cao Tây Bắc

Bọn chúa đất lộng hành

Khiến Vợ chồng A Phủ

Phải bỏ làng Hồng Ngài

Đến Phiềng Sa sinh sống

 

Ở đồng bằng Bắc bộ

Nông dân cũng thê thảm

Miếng ăn quá chật vật

Thân phận như cọng rơm

Vợ nhặt rất dễ dàng

Chiến thắng Điện Biên Phủ,

Thực dân Pháp chạy dài.

Từ chiến khu Việt Bắc,

Cách Mạng về Hà Nội

Hòa bình được lập lại.

 

Ôi thiên nhiên Tây Bắc

Hung bạo mà trữ tình

Người lái đò Sông Đà

Trí dũng và tài hoa

Họa thành bức tranh mới.

 

Miền Nam ngùn ngụt khói

Mỹ khuấy động chiến trường

Bác Phạm Văn Đồng viết:

Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu,

Tỏa sáng trong văn nghệ.

 

Lên mảnh đất Tây Nguyên

Rừng xà nu bừng dậy

Che chở làng Xô Man

Anh Tnú thành anh hùng

Năm ngọn đuốc bốc cháy.

Xuống đồng bằng Cửu Long

Những đứa con cộng sản

Giành nhau đi giết giặc

Trả thù nhà nợ nước

Sáng ngời trên trang văn.

 

Biển nổi cơn cuồng phong

Sóng cồn cào dữ dội.

Biển hát lời bình yên

Sóng dạt dào hạnh phúc

Tình yêu cô gái trẻ.

 

Không có chiến tranh nào

Giết nổi lòng dân ta

Yêu nước và yêu đời

Đất Nước thật bình dị

Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm.

 

Sông Hương sao đẹp thế

Chở phù sa văn hóa

Bồi đắp đất kinh thành

Trang giai nhân tuyệt sắc

Ai mà khéo đặt tên?

Lưu Quang Vũ viết kịch

Trương Ba và hàng thịt

Cuộc chiến: sống hay chết?

Muôn mặt cuộc đời thường

Cho ta nhiều suy ngẫm.

 

Thơ văn cũng đổi mới

Đàn ghi ta của Lor-ca

Thơ siêu thực, tượng trưng

Cũng chứa đựng nỗi niềm

Đau xót bậc thiên tài.

 

Về vùng biển Miền Trung

Ngắm Chiếc thuyền ngoài xa

Nặng lòng ngư dân biển

Cuộc sống thật bấp bênh

Tình mẫu tử thiêng liêng.

 

Đất nước bốn ngàn năm

Nhiều thăng trầm, biến cố

Hóa thành văn thành thơ

Muôn đời sau tự hào.

TVT - 2015






Thứ Hai, 6 tháng 4, 2015

Tư liệu hay: "THƠ ĐIÊN HÀN MẶC TỬ - THI HỌC CỦA CÁI TỘT CÙNG" - HAY LÀ CÁI TỘT CÙNG CỦA SỰ TÙY TIỆN ?

"THƠ ĐIÊN HÀN MẶC TỬ - THI HỌC CỦA CÁI TỘT CÙNG" -
HAY LÀ CÁI TỘT CÙNG CỦA SỰ TÙY TIỆN ?

Báo "Văn Nghệ" số 47, ngày 20 -11-2004 có đăng bài của tác giả Văn Giá nhan đề : "Thêm một công trình nghiên cứu có chất lượng về Thơ Mới", nhằm hết lời ca ngợi cuốn tiểu luận : " Ba đỉnh cao Thơ Mới" của Chu Văn Sơn ( NXB Giáo Dục, 2003). Có thể nói, những lời ca ngợi Chu Văn Sơn của Văn Giá nếu dùng cho Hoài Thanh e còn hơi quá, ví dụ : "...Công trình này tự nó đã có dáng dấp của một lý thuyết nghiên cứu riêng, mặc dù tác giả chưa có ý định lập thuyết. Một công trình nghiên cứu được gọi là hay không chỉ có được những kết quả hay mà còn thể hiện được phương pháp nghiên cứu hay, mới mẻ, thú vị. Công trình này có được những phẩm chất như vậy. Tác giả đã thực sự làm mới lại, trẻ lại những gương mặt thi sĩ cách chúng ta chừng 70 năm..."... " Người viết đã như gọi được hồn vía của mỗi nhà thơ hiện lên trang giấy..."... " Chu Văn Sơn đã có một ngôn ngữ phê bình riêng, hiểu theo cả nghĩa rộng như một cách thức tiếp cận riêng, và cả nghĩa hẹp, như một hệ thống từ vựng xác định, mang ấn tín , quyền uy của Chu Văn Sơn"... " Công trình này mang tính chuyên môn cao"... "Công trình này là một minh chứng thuyết phục cho tính chuyên nghiệp của nghiên cứu phê bình văn học..." ... " Với một tinh thần lao động như thế, chữ nghĩa của tác giả đã làm nên tư tưởng, làm nên dấu ấn riêng trên con đường định hình một phong cách nghiên cứu phê bình văn học Chu Văn Sơn..."...

Chúng tôi sẽ lần lượt khảo sát ba phần của cuốn : " Ba đỉnh cao Thơ Mới" của Chu Văn Sơn ( viết về Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử) xem những lời tụng ca hết cỡ trên của Văn Giá với tác giả này đúng hay sai, xem "tư tưởng", "phong cách", "ấn tín" và "quyền uy" của Chu Văn Sơn là những món gì... Phần đầu tiên, chúng tôi muốn bàn với hai ông Chu Văn Sơn và Văn Giá về linh hồn phần viết về Hàn Mặc Tử của Chu Văn Sơn từ trang 226 đến trang 245 trong cuốn sách đã dẫn với tiêu đề : " THƠ ĐIÊN HÀN MẶC TỬ - THI HỌC CỦA CÁI TỘT CÙNG".

Trước hết, chúng tôi muốn bàn về khái niệm : "THƠ ĐIÊN HÀN MẶC TỬ" do Chu Văn Sơn phát minh ra trên cơ sở nhận xét của Chế Lan Viên về "trường thơ Loạn Quy Nhơn" trong lời tựa cho tập "Điêu tàn" như sau : " Cái gì của nó cũng tột cùng !". Nghe nói Hàn Mặc Tử có ý định đặt tên cho tập thơ " Đau thương" là " Thơ điên", nhưng rồi thi hào bỏ ý định không chuẩn đó. Có lẽ vì điều này mà Chu Văn Sơn lầm tưởng rằng "Đau thương" là "Thơ điên" nên ông đã điên hoá toàn bộ thơ Hàn chăng? Đồng thời, Chu Văn Sơn còn ngây thơ tách câu văn " Cái gì của nó cũng tột cùng" của Chế Lan Viên ra khỏi văn cảnh, ngữ cảnh của nó là bài tựa của chính Chế Lan Viên cho tập "Điêu tàn", để lấy từ "CÁI TỘT CÙNG" này ra làm "mỹ học của cái tột cùng", "thi học của cái tột cùng". Chao ôi, "CÁI TỘT CÙNG SỐNG", tận cùng sống là gì nếu không phải là "CHẾT". Như vậy, theo công thức của Chu Văn Sơn : Thơ điên Hàn Mặc Tử = Thi học của cái tột cùng, theo phép tam đoạn luận, ta có đẳng thức TỘT CÙNG SỐNG = CHẾT = THƠ ĐIÊN... ư ? Có bao nhiêu sự vật (bao gồm sự vật vật chất và sự vật tinh thần), thì cũng có bấy nhiêu cái tột cùng, có thể kể ra VÔ TẬN CÁI TỘT CÙNG như tột cùng tốt, tột xùng xấu, tột cùng thiện, tột cùng ác, tột cùng chim, tột cùng khỉ, tột cùng tuỳ tiện, tột cùng lăng nhăng...Thành ra theo Chu Văn Sơn, ta có thể có hàng tỉ tỉ chủng loại THI HỌC ư ? Cho nên, khái niệm THI HỌC CỦA CÁI TỘT CÙNG = THƠ ĐIÊN ...là một khái niệm tuỳ tiện, lăng nhăng chẳng hề có cơ sở khoa học gì cả.

Xin hãy nghe Chu Văn Sơn lập thuyết, lập luận : "Chinh phục cái tột cùng, tất nhiên, cần phải có thơ ca của một hình thức tột cùng. Hình thức ấy liệu có thể là gì khác hơn Thơ điên ?". Như vậy, theo Chu Văn Sơn "Thơ điên" không hề là một nội dung, mà nó chỉ là MỘT HÌNH THỨC, tức là THƠ ĐIÊN = MỘT HÌNH THỨC TỘT CÙNG. Ở trang 231, Chu Văn Sơn lại viết gần như ngược lại rằng thơ điên không còn thuần tuý là một hình thức như kết luận ban đầu của ông nữa, mà nó có nội dung đấy, như sau : " Và đây là cái gốc của Thơ điên . Đúng thế, nếu ĐAU THƯƠNG LÀ NỘI DUNG SÁNG TẠO, thì ĐIÊN LÀ HÌNH THỨC của sáng tạo ấy" ( Phần chữ in hoa trong bài đều do TMH nhấn mạnh). Qua kết luận này của Chu Văn Sơn, ta có một đẳng thức sau : THƠ ĐIÊN = NỘI DUNG ĐAU THƯƠNG + HÌNH THỨC ĐIÊN. Kết hợp đẳng thức 1 với đẳng thức 2 trên đây, ta có một đẳng thức khá trọn vẹn của Chu Văn Sơn như sau : THƠ ĐIÊN = MỘT HÌNH THỨC TỘT CÙNG = NỘI DUNG ĐAU THƯƠNG + HÌNH THỨC ĐIÊN.

Đến mức này, "lý luận" của Chu Văn Sơn đang đẩy "hệ thống điên" của ông vào chốn tắc tị. Vậy, xin hỏi thế nào là MỘT HÌNH THỨC TỘT CÙNG ? Chẳng lẽ, CÁI TỘT CÙNG mà Chu Văn Sơn nâng lên thành "Thi học", thành " Nguyên tắc mĩ học đặc thù của Thơ điên" ( trang 227) lại chỉ là một hình thức mà không có nội dung ư ? Hoá ra, theo Chu Văn Sơn, lại có một thứ "THI HỌC", một thứ "MĨ HỌC" chỉ thuần có hình thức mà không có nội dung ư ? Nhưng rồi, sao MỘT HÌNH THỨC TỘT CÙNG lại chính là HÌNH THỨC ĐIÊN; hoá ra, rút gọn lại, ta thấy Chu Văn Sơn lại đồng nghĩa CÁI TỘT CÙNG chính là ĐIÊN. Nhưng quả tình luẩn quẩn, lung tung beng, làm sao trong MỘT HÌNH THỨC TỘT CÙNG lại chứa nổi cái NỘI DUNG ĐAU THƯƠNG + HÌNH THỨC ĐIÊN đây ? Ôi chao, thuật ngữ kinh dị của Chu Văn Sơn phát minh ra mới lẩm cẩm làm sao : HÌNH THỨC ĐIÊN ? Thế nào là "hình thức điên", rồi "một hình thức tột cùng" thì xin ông Chu Văn Sơn lý giải cho rõ, kẻo chúng tôi người trần mắt thịt không có cách gì nhận thức nổi !

Bây giờ, xin quý độc giả hãy nghe Chu Văn Sơn giải thích từ ĐIÊN ở trang 227 : " Cái tên có phần giật gân của Thơ điên, ngay từ đầu đã có sức mê hoặc giới nghiên cứu. Người ta nghĩ ngay đến việc nhận diện bản chất của ĐIÊN và bản chất Thơ điên. Không ít người đã yên trí với cách nghĩ giản đơn : điên chỉ là một trạng thái bệnh lý, đồng nghĩa với chứng loạn thần kinh, mà không thấy rằng còn có ĐIÊN NHƯ MỘT TRẠNG THÁI SÁNG TẠO".

Chao ôi, ĐIÊN NHƯ MỘT TRẠNG THÁI SÁNG TẠO là một định đề hết sức phi khoa học của Chu Văn Sơn. Không một trạng thái sáng tạo nào có thể được gọi là sáng tạo nếu nó được sáng tạo trong cơn điên. Bới vì mọi sự sáng tạo trong các lĩnh vực khoa học, nghệ thuật đều ra đời trong sự kết hợp giữa cảm xúc và lý trí. ĐIÊN dù trong trường hợp nào, trạng thái nào cũng đều là sự loạn trí, mất hết lý trí, mất hết nhận thức. Không còn nhận thức, không còn lý trí, không còn bộ óc thì làm sao người nghệ sĩ có thể sáng tạo? CÁI ĐẸP của sáng tạo nghệ thuật bao giờ cũng là một cái đẹp của khát vọng CHÂN THIỆN MỸ trong thế giới con người. Khi một kẻ nào đó, một trạng thái nào đó bị coi là điên, tức là mất khả năng nhận thức, mất khả năng NHẬN CHÂN; thiếu cái CHÂN, nghệ thuật cũng đồng thời không đạt tới cái THIỆN. Trong trạng thái ĐIÊN nơi kết luận của Chu Văn Sơn, nghệ thuật nói chung và thi ca nói riêng đã khước từ khả năng CHÂN THIỆN thì làm sao nó có thể đạt được tới cái MỸ là CÁI ĐẸP đích thực thi ca ?

Trong khi định nghĩa : " ĐIÊN NHƯ MỘT TRẠNG THÁI SÁNG TẠO" Chu Văn Sơn đã cố tình lờ đi ngữ nghĩa của từ ĐIÊN. Xin xem định nghĩa của ĐẠI TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT của Bộ GD&ĐT do NXB Văn hoá Thông tin in năm 1999, trang 633 như sau : " ĐIÊN : Ở tình trạng rối loạn thần kinh, không tự chủ được bản thân, phát khùng, rồ dại...". Bảo Thơ Hàn Mặc Tử là thơ điên, thơ khùng, thơ rồ dại, thơ mất trí là một sự vu khống trắng trợn, phủ nhận sạch trơn thiên tài thi ca Hàn Mặc Tử của Chu Văn Sơn vậy.

Người đọc thơ, hơn nữa là một người nghiên cứu văn học chuyên nghiệp như Chu Văn Sơn, sao lại không biết một nguyên tắc đơn giản là muốn kết luận một điều gì cần phải căn cứ trên văn bản, chứ không căn cứ những lời đồn thổi hay tuyên bố ngoài văn bản dù là của ngay chính tác giả. Trong một số tuyên bố của Hàn Mặc Tử hay Chế Lan Viên thời "trường thơ Loạn Quy Nhơn", có thể các thi sĩ này nghiêng về phần "mê", phần "vô thức", phần "loạn", hoặc toan đặt tên tập thơ mình là "Thơ diên"... cho hợp với phong trào giả điên của thời thế đang tiếp thu cái phần cực đoan của "tượng trưng", "đa đa", "dã thú", "siêu thực"... Nên nhớ rằng những người điên thực sự không bao giờ nhận mình điên. Chỉ những người tỉnh táo mới thậm xưng nói mình điên, như một sự làm dáng nghệ thuật, hoặc chứng tỏ ta đây đã thoát khỏi trường thơ truyền thống...

Thơ Hàn Mặc Tử phần lớn vẫn là sự tiếp thu nghệ thuật trữ tình truyền thống ông cha xưa kết hợp với chất lãng mạn và một chút tượng trưng. Ngay cả những bài thơ mang tựa đề rất điên như "Anh điên" dưới đây của Hàn Mặc Tử cũng vẫn dựa trên thể ngũ ngôn truyền thống với một hiện thực trữ tình, chẳng hề là một thứ "Thơ điên-Thơ khùng" mất hết lý trí như Chu Văn Sơn vu khống : " Anh nằm ngoài sự thực / Em ngồi trong chiêm bao / Cách nhau xa biết mấy / Nhớ thương quá thì sao ? / Anh nuốt phút từng chữ / Anh cắn vỡ lời thơ / Anh cắn cắn cắn / Hơi thở đứt làm tư !". Xin dẫn thêm một bài thơ khác được Hàn Mặc Tử đặt tên là "Em điên" thì vẫn cứ là thứ thơ truyền thống kết hợp tí chút lãng mạn, một vẻ đẹp nền nã, mê đắm kiểu "Gái quê", chẳng hề có sự mất trí, sự rồ dại khùng điên nào như Chu Văn Sơn vu vạ : " Em xé toang hơi gió / Em bóp nát tơ trăng / Em túm muôn trời lại / Em cắn vỡ hương ngàn / Em cười thì sao rụng / Em khóc thì đá bay / Em nhớ chàng quá trí / Mà chàng vẫn không hay !"...

Chính vì sự đọc không kỹ, chưa biết cách đọc thơ Hàn hay vì một nguyên nhân nào đó mà việc Chu Văn Sơn xoá sổ Hàn Mặc Tử bằng cách vu cáo thơ ông là Thơ điên, thơ khùng, thơ mất trí, thơ rồ dại lại được Văn Gía ca ngợi hết lời trên báo Văn Nghệ là một việc không sao hiểu nổi. Chỉ trong phần viết về Hàn Mặc Tử, Chu Văn Sơn tung ra bao nhiêu điều tuỳ tiện, lăng nhăng núp dưới bóng khoa học. Chẳng hạn như việc Chu Văn Sơn tách

Thơ Hàn Mặc Tử ra khỏi lãnh địa THƠ TRỮ TÌNH vì nó là THƠ ĐIÊN như sau : "Trong thơ trữ tình, việc chủ thể phân thân, hoá thân vào các đối tượng hết sức khác nhau để cất lên những tiếng nói trữ tình phong phú khác lạ không còn là điều xa lạ nữa. Ở Thơ điên, tình hình có khác hơn...". Hoá ra, theo Chu Văn Sơn, vì Thơ Hàn Mặc Tử là Thơ Điên nên nó không phải là thơ trữ tình ?

Ở phần đầu, Chu Văn Sơn cho rằng Thơ Điên từ trong Thơ Mới (1932-1945) mà ra nhưng rất khác Thơ Mới. Nhưng đến đoạn cuối, ông quên mình đã nói điều này, để đến nỗi viết ngược lại rằng THƠ ĐIÊN và THƠ MỚI là hai loại khác nhau : "Nếu Thơ Mới là hành trình đi mãi vào địa hạt cái tôi, thì Thơ Điên mang cái tham vọng muốn tới chỗ sơn cùng thuỷ tận của cái tôi đó. Nếu Thơ Mới là nỗi cô đơn của con người, thì Thơ Điên là trạng thái chót cùng hoàn toàn quá tải của cô đơn...". Hoá ra Thơ điên Hàn Mặc Tử không nằm trong lãnh địa của Thơ Mới ư ?

Chu Văn Sơn còn đưa cái thứ thơ mất lý trí, thơ rồ dại, phi nhân ( vì con người không còn trí não thì không còn là người hoàn chỉnh nữa) do ông "phát minh" ra rồi gán cho Hàn Mặc Tử, đặng ca ngợi hết lời cái thuật ngữ "thơ điên" là đã vượt lên trên cả siêu thực, tượng trưng, hiện đại như sau : " Xem ra, Siêu thực, Tượng trưng, Hiện đại... đều là những cái ô chật chội đối với thể hình ngoại chuẩn của Thơ điên". Để kết luận, Chu Văn Sơn khái quát rất tuỳ tiện như sau : " THƠ ĐIÊN - chỉ có thể là chính nó- Tiếng thơ của những cái tột cùng". Với định nghĩa về Thơ Điên thoáng tới mức vô bờ bến như thế này, ta có thể theo Chu Văn Sơn mà kết luận Thơ Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Huy Cận, Lưu Trọng Lư... thảy đều là THƠ ĐIÊN CẢ. Vì sao vậy ? Vì thơ của các thi sĩ kia đều là THƠ CỦA CÁI TỘT CÙNG. Này nhé : Xuân Diệu là tột cùng yêu, Nguyễn Bính là tột cùng nông thôn, Chế Lan Viên là tột cùng ma, Lưu Trọng Lư là tột cùng ngơ ngác, Huy Cận là tột cùng vũ trụ... Ngay cả với định nghĩa THƠ ĐIÊN LÀ TIẾNG THƠ CỦA CÁI TỘT CÙNG của Chu Văn Sơn thì những đại thi hào dân tộc như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương cũng sẽ bị Chu Văn Sơn xếp vào rọ THƠ ĐIÊN mất thôi; vì Thơ Nguyễn Trãi là thơ của tột cùng buồn đau, thơ Nguyễn Du là thơ của cái tột cùng hay, tột cùng kêu thương, thơ Hồ Xuân Hương là cái tột cùng bản ngã, tột cùng cái tôi...

Và học theo phương pháp luận về "mỹ học của cái tột cùng", "thi học của cái tột cùng là thơ điên", một thứ thơ dùng "hình thức điên" mà diễn đạt các khái niệm u u ơ ơ nơi bài viết trên của Chu Văn Sơn và bài ca ngợi của Văn Gía, cho phép chúng tôi được bắt chước hai ông mà thưa lời cuối rằng : những điều các ông "phát minh" ra trên đây quả thực là CÁI TỘT CÙNG TUỲ TIỆN vậy .,.

28-11-2004
(source : "Thế Giới Mới số 614, ngày 4-12-2004)

Tư liệu hay: VẺ ĐẸP CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM XƯA VÀ NAY TRONG VĂN HỌC

LÊ XUÂN

VẺ ĐẸP CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM XƯA VÀ NAY
TRONG VĂN HỌC

        Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam in đậm dấu ấn trong thơ ca, nhạc, họa, điêu khắc… và mãi bất tử với thời gian. Họ đã góp phần làm nên vẻ đẹp của văn hoá dân tộc.

       Phụ nữ Việt Nam (PNVN) từ xưa tới nay vốn mang vẻ đẹp thầm lặng thoang thoảng như hương quế giữa rừng xa:
                                          Em như cây quế giữa rừng
                                Ngát thơm ai biết, lẫy lừng ai hay.

Đó là vẻ đẹp chân quê, giản dị và đáng yêu. Ở họ không phải lúc nào cũng là liễu yếu đào tơ, là cái bóng của người đàn ông mà luôn tiềm ẩn một sức mạnh chẳng kém gì nam giới. Họ là một nửa của cuộc sống nhân loại. Nhà văn M. Gôrky (người Nga) đã nói: Không có mặt trời thì hoa không nở/ Không có mẹ hiền, anh hùng, thi sĩ hỏi còn đâu?.

      Từ xưa, phụ nữ ta đã có truyền thống chống ngoại xâm: Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Trong cuộc dựng nước và giữ nước đã có nhiều phụ nữ nổi tiếng như: Bà Trưng, Bà Triệu, Ỷ Lan… đã làm cho quân giặc nhiều phen bạt vía kinh hồn. Hai Bà Trưng đã từng:
                                      Hồng quần nhẹ bước chinh yên
                               Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thùy.
     Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã xuất hiện nhiều gương chiến đấu hy sinh anh dũng của các chị: Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Minh Khai, Mạc Thị Bưởi, Nguyễn Thị Nhỏ, Nguyễn Thị Chiên, Trần Thị Lý, Nguyễn Thị Tuyển, Nguyễn Thị Hằng, Võ Thị Thắng, chị Út Tịch, mẹ Tơm, mẹ Suốt, bà Nguyễn Thị Định, Nguyễn Thị Bình, Trương Mỹ Hoa v.v. Quyết tâm đánh giặc đến cùng của các mẹ, các chị là Còn cái lai quần cũng đánh (Người mẹ cầm súng – Nguyến Thi)

        Trên lĩnh vực Văn học Nghệ thuật, Giáo dục, Khoa học… nhiều phụ nữ là những nhà thơ, nhà văn, hoạ sĩ  nhạc sĩ, kỹ sư, bác sĩ, tiến sĩ  tài năng như: Diệu Nhân (người Phú Thọ)- một thiền sư, nữ sĩ thời Lý; Nguyễn Thị Duệ (người Chí Linh- Hải Dương, bà Huyện Thanh Quan (tức Nguyễn Thị Hinh), người Hà Nội- một nhà thơ tài hoa ở thế kỷ thứ XIX; bà Bảng Nhãn (tức Lê Thị Liễu)- nữ sĩ nổi tiếng ở đất Quảng Nam; và các nhà thơ như Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm… cho tới Anh Thơ, Vân Đài, Mộng Cầm, Sương Nguyệt Ánh, Xuân Quỳnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Thuý Bắc, Lâm Thị Mỹ Dạ, Dương Thị Xuân Qúy v.v.

       Trên bất kỳ lĩnh vực nào, ở giai đoạn lịch sử nào ta cũng đều bắt gặp tên tuổi của những phụ nữ nổi tiếng, làm vẻ vang dân tộc. Cả thế giới đều tôn vinh phụ nữ. Chúng ta hãy nhìn lại những quan niệm về vẻ đẹp của người PNVN xưa và nay. Vẻ đẹp ấy biểu hiện qua hình thể, lý tưởng và lẽ sống, trí tuệ và tâm hồn. Hay nói một cách khác đó là vẻ đẹp về hài hoà giữa hình thức và nội dung

        Trước CMT8 phần lớn PNVN nhuộm răng đen, búi tóc đuôi gà, mặc áo tứ thân, chít khăn mỏ quạ, đội nón quai thao… Ca dao-dân ca, thơ văn, nhạc hoạ đã ghi lại:
                                           Một yêu tóc bỏ đuôi gà
                                    Hai yêu ăn nói mặn mà có duyên
                                            Ba yêu má lúm đồng tiền
                                    Bốn yêu răng nhuộm hạt huyền thêm xinh
                                           Năm yêu con mắt hữu tình…
Hay như những câu:
          “Những người con mắt lá dăm/ Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền”
          “Ai làm cái nón quai thao/ Để cho anh thấy cô nào cũng xinh”.
          “Ngó lên đầu tóc em bao/ Chéo khăn em bịt dạ nào chẳng xiêu”.
          “Cô kia bới tóc đuôi gà/ Nắm đuôi cô lại hỏi nhà cô đâu?”
          “Bước lên xe đầu đội khăn rằn/ Dáng đi yểu điệu, ngồi gần say mê”
          “Răng đen ai nhuộm cho mình/ Để duyên mình đẹp, để tình mình ưa”
          “Những người thắt đáy lưng ong/ Vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con”.v.v…

Hoặc trong thơ Nguyễn Bính:
                                              Nào đâu cái yếm lụa sồi
                                       Cái dây lưng đủi nhuộm hồi sang xuân
                                             Nào đâu cái áo tứ thân
                                      Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?  (Chân quê).

      Một thời cha ông ta lại quan niệm người phụ nữ có khuôn mặt chữ điền mới đẹp Mặt chữ điền lắm tiền nhiều ruộng. Đó là vẻ đẹp phúc hậu, đã từng đi vào thơ Hàn Mặc Tử: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc/ Lá trúc che ngang mặt chữ điền (Đây thôn Vĩ Dạ). Đến thời hiện đại vẻ đẹp bên ngoài của người phụ nữ thật lắm màu nhiều sắc. Cái áo tứ thân của mẹ ta xưa đã được cách điệu thành áo dài với nhiều kiểu dáng. Tà áo em bay bay, bay bay trong nắng dịu dàng/ Aó bay trên đường như mây xuống phố/ Áo trên sân trường tựa cánh chim câu. Đẹp biết bao quê hương cho em chiếc áo nhiệm màu! (Một thoáng quê hương - Từ Huy và Thanh Tùng).

      Nhà thơ Nguyễn Duy đã đã nhớ lại một thời áo trắng sân trường:
                                             Thướt tha áo trắng nói cười
                                      Để ta thương nhớ một thời áo nâu  (Áo trắng má hồng).
Nhà thơ Lê Đình Cánh thì:
                                            Ở đâu tôi cũng phải lòng
                                   Những cô thôn nữ nâu sồng áo quê   (Cảnh nghèo)
 Còn nhà thơ Phạm Đình Ân lại bị hút hồn bởi chiếc áo nâu của cô gái:
                                          Anh yêu áo trắng, áo hồng
                                     Lại càng yêu đến vô cùng: áo nâu!   (Áo nâu)
 Hoặc anh cảm nhận được vẻ đẹp nền nã của chiếc áo đen mà em đã mặc trong cái thuở ban đầu:
                                           Aó đen ai mặc tình cờ
                                   Để cho ai nhớ bây giờ ai quên?
                                     … Thanh tao nào phải kén màu
                                   Sắc đen ngậm ánh sáng vào bên trong…  (Áo  đen).

Nhà thơ Bùi Văn Bồng trong một buổi chiều tà bên bờ sông Hậu khi nhìn thấy cô gái Nam Bộ mặc áo bà ba, chèo xuồng ba lá đã quên cả lối về, vì đã quá đam mê trước vẻ đẹp của tà áo diệu kỳ này:
                                    … Dòng sông thì rộng mênh mông
                                   Aó em lại thắt eo hông làm gì
                                         Khen ai khéo chít đường ly
                                  Để cho tà áo thầm thì lời quê.
                                                                          (Aó bà ba)

Vẻ đẹp của chiếc áo bà ba ấy cũng đã hơn một lần được nhạc sĩ Nhật Trường- Trần Thiện Thanh ngợi ca: Chiếc áo bà ba trên dòng sông thăm thẳm/ Em gái Ninh Kiều tóc dài chấm lưng thon.
    Nhưng có lẽ vẻ đẹp lâu bền nhất của người con gái và có sức quyến rũ lạ kỳ là cái duyên ngầm. Chẳng thế mà khi chồng giận, cô gái đã khéo nhỏ nhẹ:
                                            Chồng giận thì vợ làm lành
                                    Miệng cười tủm tỉm: rằng anh giận gì?

chứ không như cô gái khác quá vội vàng và dứt khoát để chia tay:
                                          Đất xấu vắt chẳng nên nồi
                                    Anh đi lấy vợ để tôi lấy chồng.
Hoặc có cô thẳng thừng tuyên bố:
                                            Chồng gì anh, vợ gì tôi
                                     Chẳng qua là cái nợ đời cầm tay.

Hạnh phúc của vợ chồng, của gia đình đôi khi chỉ vì một sự tự ái, một chút nghi ngờ thiếu cảm thông là có thể đổ vỡ. Nhưng đa số PNVN rất giàu lòng vị tha và có đức hy sinh. Có người đã tự hạ mình xuống tận cùng để giữ gìn hạnh phúc:
                                            Chàng ơi phụ thiếp làm chi
                                     Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng.
Hoặc có khi hạnh phúc đã tan vỡ,  người vợ đã chia tay anh chồng phụ bạc rồi nhưng vẫn còn khuyên và lo cho anh:
                                            Anh về lấy vợ bên sông
                                    Còn tôi tơ tưởng lấy con ông lái đò
                                           Phòng khi sóng cả, gió to
                                     Để tôi còn kịp chở đò đưa anh.

Anh đã có vợ khác, tôi đã có chồng, nhưng tôi vẫn độ lượng cứu giúp anh những lúc thất cơ lỡ vận,  khi anh gặp phải cảnh cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt. Thế mới biết tấm lòng vị tha của PNVN đẹp biết chừng nào!

    Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, đã làm một cuộc đổi đời cho dân tộc. Những cô yếm thắm răng đen, sột soạt quần nâu, mặc áo tứ thân đã cầm súng, cầm cuốc đi phá đường, cản bước tiến của thực dân Pháp, gác lại mọi chuyện gia đình:

                                         Nhà em phơi lúa chưa khô
                                  Ngô chửa vào bồ, sắn thái chưa xong
                                       Nhà em con bế con bồng
                                 Em cũng theo chồng đi phá đường quan.  (Tố Hữu)

Họ là những phụ nữ ba đảm đang, ba sẵn sàng việc nước, việc nhà để chồng con yên tâm đánh giặc. Đã có biết bao bà mẹ Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ/ Các anh không về, mình mẹ lặng im (Tạ Hữu Yên). Có mẹ ở Hà Bắc đã vá hơn hai trăm chiếc áo cho bộ đội, chiến sĩ: …Tấm áo ấy bấy lâu nay con thường vẫn mặc/ Để nhớ ngày chúng con về Hà Bắc/ Quần nhau với giặc, áo con rách thêm/ Nên các mẹ già lại phải thức thâu đêm vá áo/ Tấm áo ấy bấy lâu nay con quý hơn cơm gạo/ Đời mẹ nghèo thương áo rách/ Áo rách nên thương/ (Nguyễn Văn Tý). Người mẹ trong bài thơ Đất quê ta mênh mông của Dương Hương Ly đã Ðào hầm từ lúc tóc còn xanh/ Nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc/ Mẹ vẫn đào hầm dưới tầm đại bác/ Bao đêm ròng tiếng cuốc vọng năm canh. Tấm lòng mẹ rộng mênh mông như luỹ như thành, có thể dấu cả sư đoàn dưới đất. Chính những việc làm tưởng như nhỏ nhoi của các mẹ, các chị đã góp phần làm nên một Dáng đứng Việt Nam, một sức mạnh Việt Nam tạc vào thế kỷ. Những bà má ở Hậu Giang, bà Bầm ở Trung du, bà Bủ ở Việt Bắc, mẹ Tơm ở Thanh Hoá, mẹ Suốt ở Quảng Bình, chị Út Tịch ở Cầu Kè, Trà Vinh… và biết bao các mẹ, các chị đã đi vào thơ ca, nhạc, hoạ. Chị Út Tịch với quyết tâm đánh Mỹ đến cùng Còn cái lai quần cũng đánh. Những cô gái người Pa cô, Vân Kiều đi tải đạn, và tay vót chông miệng hát không nghỉ. Những cô gái Châu Yên ở Tây Bắc với bàn tay vén khéo Đụng vào khung cửi vải thành hoa/ Vung nắm tấm hoá ra đàn gà, thế mà các cô đã dùng súng trường hạ thần sấm, con ma của không lực Huê kỳ. Mười cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh), tuổi đẹp như trăng rằm từ 18 đến 20 đã ngã xuống để làm xanh một khoảng trời con gái (Lâm Thị Mỹ Dạ). Nhiều cô gái Em ở nông trường hay ra biên giới miệng vẫn hát vang lời ca Cuộc đời vẫn đẹp sao, tình yêu vẫn đẹp sao! Những cô giáo ở Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên hay ở vùng sâu, vùng xa hy sinh cả tuổi xuân để đem chữ Cụ Hồ tới đàn em thơ ở các bản làng dân tộc xa xôi, hẻo lánh. Cô giáo người Tày Tô Thị Rĩnh đã dùng tiếng đàn để thu hút các em học sinh người Hmông tới lớp, lấy đồng lương ít ỏi của mình để mua tập vở cho các em. Ta hãy nghe lời tự hát, tự ru lòng mình đến rơi nước mắt của các cô giáo ở một bản làng heo hút vùng cao:

                                            Ở rừng tự hát ru nhau
                                     Lá trầu chị héo, quả cau em già
                                           Ước ao có một gian nhà
                                     Có trưa đưa võng đón bà lên chơi…   (Em đi - Lê Đình Cánh).

Những người PNVN đẹp trong lao động, đẹp trong chiến đấu, và trong đời thường họ càng đẹp hơn. Người vợ đã nén nỗi đau, tiễn chồng ra trận và hứa với anh: Lúa tốt lắm anh ơi/ Giải thi đua em giật (Trần Hữu Thung), vẫn luôn xoè bàn tay bấm đốt , nhìn hoa bưởi, hoa chanh mà mong ngày anh về. Chị không mang nỗi buồn bi luỵ như người chinh phụ xưa trong buổi tiễn đưa:
                                  Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
                                  Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
                                        Ngàn dâu xanh ngắt một màu
                                 Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?      (Chinh phụ ngâm)

Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn đã cảm nhận được vẻ đẹp kín đáo của một cô gái nông thôn gói bông bưởi vào chiếc khăn tay tặng người yêu ngày mai ra trận: Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu…/Hai người chia tay sao chẳng nói điều chi/ Mà hương thầm thơm mãi bước người đi. Nhiều cuộc chia tay đẹp như cánh nhạn lai bồng dưới một trời phượng đỏ.

        Những người mẹ, người vợ ở hậu phương luôn làm yên lòng người đi chiến đấu. Nàng dâu và mẹ chồng càng thương nhau hơn: Phải đâu mẹ của riêng anh/ Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi/ Mẹ tuy không đẻ không nuôi/ Mà em ơn mẹ suốt đời chưa xong… (Xuân Quỳnh). Người mẹ nào mà chẳng thấy mát lòng hả dạ khi nghe những lời tâm tình của nàng dâu như thế!  Người phụ nữ hôm nay không còn là những cô gái xưa trong thơ Nguyễn Bính: Em là con gái trong khung cửi/ Dệt lụa quanh năm với mẹ già. Họ cũng không hoá đá như nàng Tô Thị xưa. Họ là một nửa của vẻ đẹp cuộc sống, và chiếm hơn 50% dân số nhân loại.

      Vẻ đẹp hình thể và vẻ đẹp tâm hồn của người PNVN ngày nay đã được nâng lên một bước phù hợp với thời đại trong xu thế hội nhập toàn cầu, nhưng vẫn giữ được tính dân tộc đậm đà. Họ vẫn phát huy vẻ đẹp của một thời anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang và còn mang vẻ đẹp về trí tuệ. Nhiều chị em là những giáo sư, tiến sĩ, nhà khoa học, kỹ sư, bác sĩ … ngang hàng hoặc vượt nam giới. Những hoa hậu, á hậu, hoa khôi, người đẹp thời trang hôm nay là những sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng, biết hát hay, múa giỏi, trả lời ứng xử tinh thông. Họ không còn là những người đẹp trong cung cấm xưa để điểm tô cho ngai vàng phong kiến. Họ đang viết tiếp trang sử oanh liệt của Bà Triệu, Bà Trưng dưới thời đại mới, và họ có mặt khắp nơi trên mọi nẻo đường của Tổ quốc.


        Vẻ đẹp của người PNVN in dấu ấn đậm trong thơ ca, nhạc, họa, điêu khắc… và mãi bất tử với thời gian. Họ đã góp phần làm nên vẻ đẹp của văn hoá dân tộc.  Chúng ta hãy cùng chia sớt nỗi đau của các mẹ, các chị trong quá khứ, và cùng vui, cùng tự hào với những gì mà các mẹ, các chị đã góp phần làm nên vẻ đẹp của phụ nữ trong cuộc sống hôm nay và mai sau.