Ngữ văn THPT
- 💓Dẫn chứng NLVH (1)
- 💓Dẫn chứng NLXH (2)
- 💕Đề thi TS vào lớp 10 của TN (4)
- 💖Bài mẫu (CT 2018) (11)
- 💖Bài phát biểu (11)
- 💖Bài viết của học sinh (4)
- 💖Bản đặc tả CT 2018 (3)
- 💖CT GDPT 2018 - THCS (5)
- 💖CT GDPT 2018 - THPT (4)
- 💖Đề minh họa KT của BGD (5)
- 💖Đề thi HSG QG (2)
- 💖Khung ma trận CT 2018 (4)
- 💗Bài viết của GV (12)
- 💚Đề kiểm tra HK lớp 10 (CT2018) (7)
- 💚Đề kiểm tra HK lớp 11 (CT2018) (3)
- 💚TL GDĐP Tây Ninh (3)
- 💛Đề minh họa thi TN 2025 (1)
- 💜Đề thi Olimpic (4)
- 💝Bài (sưu tầm) hay (18)
- 💢CẤU TRÚC ĐỀ HSG 2018 (1)
- 💦Đề thi ĐGNL 2025 (1)
- 🤎Bài viết của hs...cười bể bụng (2)
- 🟠CÁC DẠNG ĐỀ THI (2018) (6)
- Đề kiểm tra lớp 12 (CT2018) (1)
Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2024
CÁCH ĐƯA KIẾN THỨC LLVH VÀO BÀI VĂN
THƠ MÙA THU
THƠ MÙA THU
Thứ Hai, 16 tháng 9, 2024
CỐ NHÀ THƠ LÊ ĐẠT: “NHÀ PHU CHỮ” NÓI VỀ NGHỀ THƠ
Cố nhà thơ Lê Đạt từng tâm sự: “Ngay từ nhỏ, tôi đã ôm ấp mộng cách tân thơ Việt - lẽ dĩ nhiên lúc đó tôi
không ý thức được rõ rệt nên cách tân như thế nào. Sau Cách mạng tháng 8, nhà
thơ ảnh hưởng đến tôi nhiều nhất là nhà thơ Xô - Viết Mayakovsky. Tôi thích
những hình ảnh quả đấm hết sức táo bạo cũng như những bài thơ quảng trường mạnh
mẽ tham gia trực tiếp vào quá trình thay đổi xã hội của ông, ảnh hưởng của Maya
rất đậm nét trong những bài thơ đầu tiên của tôi”
Mở đầu cuộc cách tân
thơ, Lê Đạt khác đã dành hết tâm sức của mình cho một cuộc chơi mới, cuộc
chơi của một nhà - phu - chữ như cách dùng từ của Lê Đạt. Trong bài thơ Bóng chữ, một bài đặc trưng cho phong cách Lê Đạt, cái cảm xúc trữ tình
của thơ tiền chiến đã được chuyển hoá sang một dạng trữ tình khác, nó không dạt
dào, sướt mướt ở bề mặt chữ, nó khơi gợi sự âm vang bất ngờ từ bề sâu của một
cảm xúc, một suy tư:”Chia xa rồi anh mới thấy em/ Như một thời
thơ thiếu nhỏ/ Em về trắng đầy cong khung nhớ/ Mưa mấy
mùa mây mấy độ thu/ Vườn thức một mùi hoa đi vắng/ Em
vẫn đây mà em ở đâu/ Chiều Âu Lâu/ bóng chữ động chân
cầu”. Câu kết của bài thơ mang trong nội hàm của chữ một dư âm mới,
qua bài thơ này, chiều Âu Lâu không còn là một địa danh trữ tình của riêng nhà
thơ nữa khi bóng chiều, bóng chữ hay bóng người tình xưa còn đang vang động ở
phía chân cầu của ký ức vì khu vườn xưa vẫn thức một mùi hoa đi vắng mặc dù mưa
đã mấy mùa và mây mấy độ thu.
KHƠI DẬY SỰ SỐNG ĐỘNG CỦA CẢM XÚC VÀ TRÍ TƯỞNG TƯỢNG
Lê Đạt là một thi sĩ dày công chăm bón chữ nghĩa, tôi có cảm giác trước khi gieo trồng mỗi câu thơ của
mình, ông làm chữ kỹ càng tới mức “xới đất, lật cỏ” như một nông phu cần mẫn
làm đất chuẩn bị mọi thứ cho một vụ mùa gieo trồng mới của họ. Nhưng khác với
công việc cày ải, gieo trồng của các nông phu, công đoạn làm chữ của một nhà
thơ theo kiểu phu - chữ luôn cần tới một tố chất thiên bẩm khác, đó là khả năng
khơi dậy sự sống động của cảm xúc và trí tưởng tượng từ những con chữ vô tri vô
giác theo một cấu trúc ngôn ngữ thơ: “Anh tìm về địa chỉ tuổi
thơ/ Nhà số lẻ/ phố trò chơi bỏ dở/ Mộng
anh hường/ tìm môi em bói đỏ/ Giàn trầu già/ khua /những
át cơ rơi”. Bài thơ Át cơ nói trên của Lê Đạt ngay từ khi mới công bố đã
gây nhiều tranh cãi khác nhau, nhưng bất luận thế nào thì mọi người cũng thống
nhất đây là một bài thơ hay. Cái hay của nó không chỉ bởi sự liên tưởng của
nhiều hình ảnh lạ xuất hiện trong một bài thơ rất ngắn, cái hay của nó còn nằm
ở kỹ năng chơi chữ rất tài hoa và tinh tế kiểu Lê Đạt, đã khiến cho mỗi người
đọc bài thơ lại nhận thấy có một tâm tưởng khác, một cảm hứng khác, một
khung trời khác sau những câu thơ mang vẻ đẹp bí ẩn nói trên.
Với Lê Đạt, nhiều người đọc đã rung động trước một
lời tâm sự khá nổi tiếng của ông. “Một nhà thơ sắp già báo trước một người đàn
bà chưa hết trẻ”: “Anh bảo đảm không làm phiền em cõi đời, không dám hứa không
làm phiền em cõi chữ, ở đó hai ta đều bất lực”- Thơ là kết quả của sự làm phiền
đó chăng”. Nếu coi chiếc áo dài truyền thống của thơ là vẻ đẹp quến rũ của lục
bát - ca dao thì phải chăng đẹp vẻ khêu gợi một cá tính của bộ váy áo âu - tây
mát mẻ chính là đường nét của thơ hiện sinh. Theo tôi, Lê Đạt là một nhà chủ
động cách tân nhằm hiện - sinh - hóa những mảnh rời của hiện thực theo kiểu
những bài thơ Hai-kâu sau đây của ông: “Tình sét đánh má đồi môi bão ập/ Yêu
một liều xuân bất chấp thu lôi” (Thu lôi); “Tàu đắm hẹn bội thề
lênh láng biển/ Trăng tình bờ mộng thải nhiễm ô mơ”(Ô nhiễm); “Em tình tựa cơ
may phường ảo số/ Mỗi ngả đường e cửa ngõ Tạm Thương” (Ngõ Tạm Thương);“Rượu nổ
má bừng cỗ xuân ầm ã/Mâm một tình mời ăn vã cô đơn” (Cỗ xuân).
Tôi nhất quyết rằng, những bài thơ trên đây là một kiểu “đố chữ”
rất tài tình, lý thú của Lê Đạt (khi tên của bài thơ nằm ngay trong 2 câu thơ)
và nếu như tác giả giấu tên thật của mỗi bài thơ Hai-kâu thì người đọc khó mà
đoán đúng được ý đồ đặt tên bài thơ của tác giả. Kiểu thơ Hai-kâu này cho thấy
nhà thơ đã dày công tìm tòi nhiều cách chơi chữ rất kỳ ảo và biến hóa, nó nén
lại cả một năng lượng thẩm mỹ chỉ trong hai câu thơ ngắn và đây là một hướng
cách tân thơ rất hiện đại của nhà phu - chữ - thơ (theo cách gọi của Lê Đạt).
SỰ UYÊN BÁC TINH TẾ
CỦA THÚ CHƠI CHỮ TRONG THƠ CA
Luận bàn về thú chơi chữ trong thơ, Lê Đạt từng khẳng định
trong Đường chữ: “Người làm
thơ chơi những phép tu từ như một thứ bẫy vô thức. Anh ta sinh sự với ngữ nghĩa
và ngữ pháp để tạo ra một sự sinh mới cho thơ. Người làm thơ rắp tâm biến ngôn
ngữ tiêu dùng thành một thứ ngôn ngữ trò chơi (hiểu theo nghĩa mạnh) trong một
trạng thái nửa tỉnh nửa mơ mà Roland Barthes gọi là một sự chú ý bồng bênh
(attention flottante). Chính cái trò chơi hết mình này khiến Freud coi các nghệ
sĩ như một thứ trẻ con lớn tuổi có khả năng đánh thức bản năng trò chơi của độc
giả. Người chơi chữ dễ dàng được coi là người thông minh, chơi như vậy là chơi
đùa. Nhà nghệ sĩ cũng như đứa trẻ không
chơi đùa mà chơi, thật khiến trò chơi chữ không còn là một trò chơi đơn thuần
dựa trên óc thông minh của một người tỉnh táo mà dựa trên toàn bộ trí năng cũng
như cảm năng của một kẻ đam mê bị thánh ốp trong một cơn thượng đồng của chữ”. Thiết nghĩ, bàn về sự chơi chữ trong thơ đến
thấu đáo như vậy thì cũng đã đủ cho chúng ta thấy Lê Đạt uyên bác và tinh tế
trong cách dùng chữ nghĩa như thế nào.
Sau Bóng chữ, Lê Đạt đã dành gần 200 trang thơ trong
tập Ngó lời (NXB Văn học,1997) để trình bày một cuộc chơi mới
của mình với gần 300 bài thơ viết theo kiểu thơ Hai-kâu (đồng dạng với kiểu thơ
Hai - cư của Nhật Bản). So với những cách tân quyết liệt của Trần Dần thì Lê
Đạt đi theo một hướng khác, ông cố gắng đưa ra một hệ thống mỹ cảm mới trong sự
cách điệu những con chữ mà bài thơ Quan họ sau đây là một ví
dụ điển hình: “Tóc trắng tầm xanh qua cầu với gió/ Đùi bãi ngô
non /ngo ngó sông đầy/ Cây gạo già/ lơi
tình /lên hiệu đỏ/ La lả cành/ cởi
thắm / để hoa bay/ Em về nói làm sao với mẹ/ Em
trường nét gốm thon bình cổ đại/ Mình Lưỡng Hà/thoai thoải/ vú
Đông Sơn/ ước gì/ nhỏ đấy bằng con giống/ Bỏ
túi đi cùng/ ta phố bông tình bông”.
Ở bài thơ trên, nhịp
thơ vẫn cũ nhưng hình ảnh và âm điệu thơ đã mới rất nhiều. Cái hình
tượng: Đùi bãi ngô non ngo ngó sông đầy là một phát hiện mới
rất Lê Đạt về mặt mỹ cảm và không chỉ xuất hiện một lần, ngay trong đoạn thơ
sau đó, ông lại múa bút vẽ những nét xuất thần để độc giả thơ được thấy: Em
trường nét gốm thon bình cổ đại/ Mình Lưỡng hà thoai thoải vú Đông Sơn. Cái
đẹp rung động này mang hơi thở ngàn năm của đất đai, sông núi và mãi trường tồn
như ngàn khúc dân ca miền Kinh Bắc. Đây là một bài thơ đặc sắc viết về Quan họ
với cách nhìn rất mới của Lê Đạt khi âm điệu câu thơ dường như còn nhấn nhá,
ngân nga theo nhịp hát Quan họ: Cây gạo già lơi tình lên hiệu đỏ/ La lả
cành cởi thắm để hoa bay, nhưng hình ảnh bao trùm lên toàn bộ bài thơ là
một không gian đầy sức sống của vẻ đẹp phồn sinh đang hiện hữu trong từng câu
chữ.
Trong
một lần trao đổi với tôi về thi ca cách tân, nhà thơ Lê Đạt cho biết: “Một nhà
thơ nước ngoài đã nói: ‘Khi ngôn ngữ thơ là hình ảnh, nó trói buộc ta trong một
nhà tù rất ghê gớm và thoát ra khỏi nhà tù ấy là bước đầu tiên đã dám đổi mới,
ta dám sống mới’. Điều ấy quan trọng lắm và tôi cho rằng cách tân đó là quan
trọng nhất. Vì những câu thơ hay bao giờ cũng xuất phát từ cách nhìn mới, bởi
hiện tượng chính là tự nhiên cùng với cách quan sát về nó, nên thay đổi cách
nhìn là điều quan trọng nhất đối với một nhà thơ. Trong thơ của tôi, ngoài phần
thơ hai-kâu còn thêm phần đoản ngôn rất mới và là một hình thức suy nghĩ ngắn
gọn về nghệ thuật và cách ứng xử trong cuộc đời. Thể thơ đoản ngôn này thoải
mái hơn thể thơ hai-kâu vì nó viết theo kiểu thơ văn xuôi”. Cũng theo nhà thơ
Lê Đạt “Điều cốt lõi quan trọng nhất đối với nghề thơ là phải lao động thơ một cách cần mẫn và không
ngừng nâng cao văn hóa. Các nhà thơ cần phải cố gắng hơn nữa để cho
độc giả thơ chấp nhận mình. Trong động tác chân tôi ghét nhất là dậm chân tại
chỗ vì nó đi mà vẫn đứng; trong mọi thứ phải vội thì không nên vội khi làm chữ
và khi tự tử”
https://cand.com.vn/Tu-lieu-van-hoa/nha-tho-le-dat-nha-phu-chu-noi-ve-nghe-tho-i733635/
NHẬN ĐỊNH LÍ LUẬN VĂN HỌC
1. “Trong đau khổ có tư
tưởng” – (Fyodor Dostoevsky)
2. “Viết văn là một quá
trình đấu tranh để nói ra sự thật” – (Tô Hoài)
3. “Không có tiếng nói
riêng, không mang lại những điều mới mẻ cho văn chương mà chỉ giẫm theo đường
mòn thì tác phẩm nghệ thuật sẽ chết.” (Leonit Leonop)
4. “Có thể vượt qua giới
hạn lớn lao của loài người không phải bằng cách tự xóa mình đi mà bằng cách mở
rộng bản sắc của chính mình.” ( Tagore)
5. “Nghệ sĩ là người biết
khai thác những ấn tượng riêng, chủ quan của mình, tìm thấy những ấn tượng có
giá trị khái quát và làm cho những ấn tượng ấy có được hình thức riêng.” (
M.Gorki)
6. “Nghệ thuật bao giờ
cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư.”
(Lê Ngọc Trà)
7. “Văn học nằm ngoài các
định luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết.” (Shchedrin)
8. “Tương lai chỉ thuộc
về những ai nắm được phong cách” (Victor Hugo)
9. “Văn chương không cần
đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ
dung nạp những người biết đào sâu tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và
sáng tạo những gì chưa có.” (Nam Cao)
10. “Bài thơ hay là bài
thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người và tôi muốn thơ
phải thật là gan ruột của mình” (Tố Hữu)
11. “Nhân giả trí nhân”
(Người có lòng nhân luôn thương con người) (Khổng Tử)
12. “Tác phẩm văn học là
sự cưới xin giữa ngoại vật và nội tâm nhà văn” (Xuân Diệu)
13. “Nghệ thuật không tái
tạo những gì ta thấy đúng hơn là nó mở mắt cho ta” (Picasso)
14. “Khi văn xuôi đã đạt
tới mức toàn Thiện Toàn Mỹ thì về bản chất nó đã thực là thơ” (Paustovsky)
15. 28. “Nghệ thuật là sự
vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người”. (Nguyên Ngọc)
16. “Văn học chỉ phơi bày
thực trạng đời sống con người, nêu lên những vấn đề nhân bản của nó” (Cao Hành
Kiện)
17. “Ngôn ngữ của thi ca
khác với ngôn ngữ của đời sống ở chỗ là nó gợi ra được những liên tưởng phong
phú, khơi dậy ở tâm hồn con người những rung động sâu xa, biến những tầm thường
của đời sống thành những gì lãng mạn, cao cả” (Lâm Ngữ Đường)
18. “Đời sống xanh tươi là
cội nguồn sâu xa của văn học”(Goethe)
19. “Chỉ có cuộc đời rộng
rãi, chỉ có trường đời vô thường định mới dạy cho người ta biết được những câu
đẹp đẽ”( Nguyễn Tuân )
20. “Mỗi bài thơ mà hôm
nay tôi trao vào tay bạn đọc thân mến là nảy sinh cùng với mầm mống trên cái
cây xao động của cuộc đời đang nở hoa. Coi thường quyển sách này sẽ là tàn nhẫn
bởi vì nó gắn liền khăng khít với bản thân cuộc đời tôi.” (Lorca)
21. “Ý nghĩa trong thơ tôi
là do bạn đọc cho nó” (P. Valery)
22. “Đọc một câu thơ hay,
ta thường có cảm giác đứng trước một bến đò gió nổi, một khao khát sang sông, một
thúc đẩy lên đường hướng đến những vùng trời đẹp hơn, nhân tính hơn…” (Lê Đạt)
23. “Một câu thơ hay là
một câu thơ có sức gợi” (Lưu Trọng Lư)
24. “Thơ không cần nhiều
từ ngữ. Nó cũng không quan tâm đến hình xác của sự sống. Nó chỉ cần cảm nhận và
truyền đi 1 chút linh hồn cùa cảnh vật thông qua linh hồn thi sĩ” (Nguyễn Đăng Mạnh)
25. “Thơ là tiếng nói hồn
nhiên nhất của tâm hồn con người trước cuộc đời” (Tố Hữu)
26. “Cái bóng của độc giả
luôn luôn cúi xuống sau lưng nhà văn, ngay khi mà nhà văn ngồi trước trang giấy
trắng.” (Aimatov)
27. “Bài thơ là sợi dậy
truyền tình cảm cho người đọc” (Nguyễn Đình Thi)
28. “Cuộc sống là cánh
đồng màu mở để cho thơ bén rễ sinh sôi” (Puskin)
29. “Câu thơ phải luôn bất
ổn và xôn xao – Không thể nằm yên mà ngủ được nào” (Chế Lan Viên)
30. “Sáng tác thơ là một
việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể” (Xuân Diệu)
31. “Câu thơ hay là câu
thơ có kahr năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người”
(Chu Văn Sơn)
32. “Khi tác phầm kết thúc,
ấy là sự sống của nó mới thực sự bắt đầu” (Aimatov)
33. “Thơ là hiện thực, thơ
là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa” (Xuân Diệu)
34. “Đụng chạm với cuộc
sống hằng ngày tâm trạng nảy lên bao nhiêu hình ảnh như lúc búa đập vào sắt
trên đe. Người làm thơ lượm lặt những tia sáng ấy, kết thành một bó sáng. Đó là
hình ảnh thơ” (Nguyễn Đình Thi)
35. “Văn chương sẽ là hình
dung của sự sống muôn hình vạn trạng” (Hoài Thanh)
36. “Nhà văn là người đi
tìm, gắng đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người” (Nguyễn
Minh Châu)
37. “Ý hết mà lời dừng, ấy
là lời rất mừng trong thiên hạ. Nhưng lời dừng mà ý chưa hết lại càng hay
tuyệt” (Lê Quý Đôn)
38. “Khi sáng tạo ra chữ,
những chữ nảy mầm mới là những chữ đích thực” (Berton Brech)
39. “Những tình cảm rất quý
có thể trở nên tầm thường khi diễn đạt ra thành lời” (Gogon)
40. “Tình huống là cái
sống còn của truyện ngắn” (Nguyễn Minh Châu)
41. “Chủ đề là một ý tưởng
nảy mầm trong vốn kinh nghiệm của tác giả, do cuộc sống mách bảo cho tác giả,
nhưng vẫn còn ẩn náu trong cái vốn ấn tượng của anh ta dưới một dạng thức chưa
hình thành và đòi hỏi phải được thể hiện trong những hình tượng, thúc đẩy tác
giả tìm cách hình tượng hóa nó” (M. Gorky)
42. “Thơ là một bức họa để
cảm nhận thay vì để ngắm” (Leonardo DeVinci)
43. “Nhà thơ gói tâm tình
mình vào trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của chính mình” (Lưu Quý
Kỳ)
44. “Tôi thấy văn chương
của mình (và cả bản thân mình) sao giống trái sầu riêng quá trời, có người thích,
khen thơm, có người bưng mũi quay đi vì chê nó nặng mùi. Nhưng khi bắt đầu kết
trái, sầu riêng đâu định trước sẽ dâng tặng cho riêng ai, nên chẳng bẻ mình bẻ
mẩy để lấy lòng người…” (Nguyễn Ngọc Tư)
45. “Người vẫn còn mang
vết thương đã toan đi chữa vết thương cho người khác. Tôi nghĩ nghề viết và
người viết cũng đơn giản vậy, chữa lành, an ủi những vết thương của người đời
để làm dịu vết thương của chính mình” (Nguyễn Ngọc Tư)
46. “Thơ là mở ra được một
cái gì mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó, vẫn như là bị phong kín” (Nguyễn
Tuân)
47. “Thơ ca, nếu không có
người tôi đã mồ côi” (Rasul Gamzatov)
48. “Mỗi người viết văn
chỉ có khả năng thành công qua những cái mình thông thuộc” (Tô Hoài)
49. “Làm thơ có lúc như
lấy người điếc lác ù tai làm bạn tri âm,
Cứ phải hét vào tai
những tiếng nói thầm.
Làm thơ có lúc là thi
sĩ câm
Ra hiệu bằng tay, bằng
mắt, bằng toàn thân,
Đóng kịch để nói điều
rất thật”
(Tri âm – Chế Lan Viên)
50. “Ôi! chỉ cần một độc giả dù vô tâm đến mấy
Là
cũng đủ cho nhà thơ thoát khỏi vạc dầu
Và
bay lên chín tầng cao”.
(Sợ nhất – Chế Lan Viên)
51. “Những phong thư anh gửi cho hư vô đều bị trả về
Dù
tem vẽ các vĩ nhân, thần thánh.
Chi
bằng anh đưa cho cô hàng xóm ở hàng rào bên cạnh
Viết
cho người độc giả bình thường gần gụi đọc thơ anh”
(Chế Lan Viên)
52. “Nghệ thuật là những câu trả lời đầy thẩm mĩ cho con người,
thay đổi, cải thiện thế giới tinh thần cho con người, nâng con người lên” (Tố
Hữu)
53. “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp.”
(Sóng Hồng)
54. “Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa
cảm”. (Voltaire)
55. “Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm. (Pauxtopxki)
56. “Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn
vàn cung bậc phong phú nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người”
(Đặng Thai Mai)
57. “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không
đáng thờ là loại chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở
con người” (Nguyễn Văn Siêu)
58. “Sống đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của
nhân dân” (Nam Cao)
59. “Những gì tôi viết ra là những gì thương yêu nhất của tôi,
những ước mong nhức nhối của tôi” (Nguyên Hồng)
60. “Quan trọng nhất của truyện ngắn là tạo ra một tình huống
nào đấy. Từ một tình huống ấy bộc lộ bản chất tính cách nhân vật hoặc bộc lộ
tâm trạng” (Nguyễn Đăng Mạnh)
61. “Truyện hay đến một mức nào đó thì thành thơ” (Paustovsky)
62. “Nhà thơ là phu chữ” (Lê Đạt)
63. “Đọc một câu thơ tức là ta gặp gỡ một tâm hồn con người”
(Antone France)
64. “Những con chữ ấy phải như những đóa hoa tu từ” (Nguyễn
Tuân)
65. “Điều quan trọng nhất của một nhà văn không phải cái anh ta
viết được nhiều mà là sáng tạo ra cái mới” (Trần Đình Sử)
66. “Nhà thơ phải nếm trải chua cay mặn ngọt của đời thì thơ mới
có dư vị” (Goethe)
67. “Người đọc thơ muốn rằng thơ phải xuất phát từ thực tại, từ
đời sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đi qua như vậy, tâm
hồn, trí tuệ phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể càng độc đáo, càng
hay” (Xuân Diệu)
68. “Văn học bao giờ cũng phải trả lời những câu hỏi của ngày
hôm nay bao giờ cũng phải đối thoại với những người đương thời với những câu
hỏi cấp bách của đời sống.” (Nguyễn Minh Châu)
69. “Thơ ca đồng hành với con người và thực hiện thức tỉnh những
lương tri đang ngủ” (Evtusenko)
70. “Hãy biết rằng chính trái tim bạn đang lên tiếng và rên rỉ
khi tay bạn viết.” (Alfret de Musse)
71. “Bài thơ hay là một sinh vật có thân xác. Mỗi câu, mỗi từ
đều có lý do. Kỹ thuật làm thơ cũng nghiêm túc như người lính trong quân đội.
Đổi một câu, một chữ là sai ở trọng tâm bài thơ, bài thơ sai lệch, sa ngã”
(Xuân Diệu)
72. “Thơ không phải lời cũng không phải lời, có ý thức mà không
phải ý thức, vô thức nhưng không hẳn là vô thức. Thơ là sự thể hiện cao nhất
của nhà thơ” (Thanh Thảo)
73. “Thơ đưa tôi đến những bến bờ không thể chạm tới” (Lưu Quang
Vũ)
74. “Con đường thơ gồm nhiều con đường khác nhau của mỗi người.
Không có một con đường chung cho tất cả. Có thể nói, con đường thơ chính là số
mệnh của nhà thơ.” (Lê Đạt)
75. “Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho
được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy.” (Phạm
Văn Đồng)