Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2024

 



THAM LUẬN

THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC

VÀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ CHƯƠNG TRÌNH GDPT NĂM 2018

MÔN NGỮ VĂN TẠI TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI

 

Kính thưa thầy Ngô Tất Thanh, hiệu trưởng trường THPT Trần Quốc Toản

Kính thưa cô Nguyễn Thị Thúy Ba, hiệu trưởng trường THPT Nguyễn Trãi

Kính thưa quý thầy giáo, cô giáo, cùng tất cả các thành viên của 2 trường TQT và NT.

Nhân dịp được giao lưu, học tập tại trường TQT, tôi xin bày tỏ lòng cám ơn đến BGH của 2 trường vì đã tạo cơ hội cho tôi được trao đổi, chia sẻ những thuận lợi, khó khăn và giải pháp thực hiện chương trình môn Ngữ văn tại trường NT.

Có thể nói, lần thay đổi SGK này, đối với bộ môn Ngữ văn là thay đổi ở nhiều phương diện:

-     Thứ nhất: Quan điểm xây dưng chương trình: Theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất >< Theo định hướng nội dung.

-     Thứ hai: Mục tiêu của chương trình: Là giúp học sinh làm chủ kiến thức phổ thông, biết vận dụng hiệu quả kiến thức, kĩ năng đã học vào đời sống và có khả năng tự học suốt đời;

-     Thứ ba: Phương pháp dạy học: Giáo viên là phải chuyển mạnh từ vị trí là "người dạy" sang vị trí là người "tổ chức, kiểm tra, định hướng" hoạt động học của học sinh;

-     Thứ tư: Sách giáo khoa: Nội dung SGK đóng vai trò là "học liệu", không phải là nguồn kiến thức duy nhất nên có nhiều bộ SGK;

-     Thứ năm: Chương trình: Theo Chương trình "mở" không quy định chi tiết về nội dung dạy học và các văn bản cụ thể mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp.,…

-     Thứ sáu: Vì chương trình soạn theo hướng mở nên kiểm tra, đánh giá cũng phải thay đổi. Đề kiểm tra cho theo hướng mở, không cho lại những văn bản mà giáo viên đã dạy trên lớp, mà phải cho kiểm tra những văn bản mới để học sinh tư duy, sáng tạo, vận dụng nhiều kiến thức, kĩ năng để làm bài; được thể hiện quan điểm của bản thân, biết phản biện tư duy cũ để tìm ra cái hay.

Năm học vừa qua là năm thứ 2 thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông mới. Qua 2 năm được cọ sát chương trình mới, bản thân nhận thấy bên cạnh những thuận lợi thì vẫn còn có những khó khăn.

-     Thuận lợi: Ban Giám hiệu nhà trường luôn quan tâm sát sao với việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo hoàn thành mục tiêu của chương trình. Cơ sở vật chất được trang bị khá hiện đại như tivi, máy chiếu, phòng thực hành,… thuận lợi trong việc ứng dụng CNTT và sử dụng các thiết bị dạy học. Giáo viên nhiệt tình, thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực và đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với tình hình mới. Học sinh ngày càng nhanh nhạy, năng động hơn trong việc tìm kiếm các thông tin cũng như là sử dụng thành thạo nhiều ứng dụng công nghệ hiện đại (quizz, ppt)

-     Khó khăn: Một số ít giáo viên còn lúng túng trong việc dạy học theo hướng tiếp cận nội dung sang dạy học tiếp cận năng lực… Học sinh đã quen với chương trình cũ, quen lối lối tư duy cũ, và quen cách dạy cũ ở cấp 2 theo kiểu đọc - chép, học thuộc lòng để kiểm tra, thi cử. Các em chưa được rèn luyện đủ 4 kĩ năng đọc - viết - nói - nghe nên lên cấp 3, học chương trình mới, giáo viên chuyển từ phương pháp dạy học truyền thống sang phương pháp dạy học phát triển năng lực (ở môn Ngữ văn là năng lực giao tiếp, năng lực văn học) làm các em bỡ ngỡ. Đây là khó khăn lớn nhất trong việc đổi mới phương pháp, phải mất một học kì các em mới quen cách dạy mới của giáo viên.

Trước những thuận lợi và khó khăn đó, Tổ Ngữ văn chúng tôi đã đề ra giải pháp như sau:

1.    Đối với giáo viên

-     Tự giác tích cực tham gia tập huấn, hội thảo đầy đủ, nghiêm túc; không ngừng học tập, trau dồi nâng cao năng lực chuyên môn (thể hiện trong KHGD cá nhân). Thường xuyên trao đổi, rút kinh nghiệm sau các giờ dạy (hội giảng, thao giảng, chuyên đề, NCBH) để tìm ra phương pháp dạy tương đối phù hợp với tất cả học sinh của trường. (Trong 2 năm học vừa qua, vừa thực hiện 2 chương trình song song, tôi khuyến khích mỗi GV phải đăng kí HG có í nhất 1 tiết của CT mới è GV có cơ hội được dự giờ, được trao đổi và góp ý để hoàn thiện phương pháp mới)

-     Quán triệt đúng vai trò của người thầy: Người thầy là người đồng hành, dẫn dắt, định hướng học sinh trong quá trình học; giúp các em mạnh dạn, chủ động tiếp cận phương pháp học tập mới nhằm phát huy phẩm chất, năng lực. (GV phải chuẩn bị KHBD thật chu đáo, nắm thật kỹ nội dung tiết dạy thì mới làm chủ được phương pháp. Đây là một khâu cực kì quan trọng, mất nhiều thời gian của thầy cô).

-     Nghiên cứu k các văn bản hướng dẫn đổi mới dạy học, các văn bản qui định về đổi mới kiểm tra, đánh giá để thực hiện một cách tốt nhất (CV 3175). Tích cực dự giờ đồng nghiệp để rút kinh nghiệm cho bản thân, dần hoàn thiện theo phương pháp mới.

2. Đối với Tổ chuyên môn

2.1 Đổi mới phương pháp dạy học

-     Tổ thảo luận, thống nhất xây dựng kế hoạch giáo dục bộ môn phù hợp với thực tế nhà trường. Chú trọng thảo luận về dạy học theo đặc trưng thể loại; dạy học chú trọng rèn luyện kỹ năng đọc - viết - nói - nghe cho học sinh; cách triển khai hoạt động dạy học trong tiết dạy cụ thể. (Tổ thống nhất chọn SGK CTST để dạy học, chưa triển khai việc lựa chọn ngữ liệu ngoài SGK để thay thế).

-     Tổ thống nhất dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Lên lớp, GV phải dành nhiều thời gian cho các hoạt động thực hành, trao đổi, thảo luận để rèn luyện kỹ năng đọc - viết - nói - nghe cho học sinh. Muốn vậy, giáo viên cần giao nhiệm vụ học tập rõ ràng, phù hợp với khả năng của học sinh, nêu cụ thể các yêu cầu về sản phẩm mà học sinh phải hoàn thành, chú trọng kiểm tra, đánh giá, hỗ trợ, động viên học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập.

-     Xây dựng kế hoạch bài dạy và tổ chức dạy học theo hướng tăng cường rèn luyện cho học sinh phương pháp đọc - viết - nói và nghe. Hướng dẫn học sinh thực hành, trải nghiệm tiếp nhận và vận dụng kiến thức tiếng Việt, văn học thông qua các hoạt động học ở trong và ngoài lớp học.

+ Đối với hoạt động dạy đọc, giáo viên xác định rõ mục đích giúp học sinh biết cách đọc và tự đọc hiểu được văn bảntừ đó hình thành phẩm chất, nhân cách cho học sinh.

GV dạy kĩ Tri thức ngữ văn cho học sinh định hướng cho học sinh hiểu ngữ liệu chỉ là phương tiện để làm rõ TTNV, việc tìm hiểu ngữ liệu là cách thức để hình thành, phát triển năng lực đọc hiểu văn bản.

+ Đối với hoạt động dạy viết, giáo viên chú trọng việc hình thành ý tưởng, biết cách trình bày ý tưởng cho học sinh. Giáo viên tập trung hướng dẫn học sinh thực hiện các bước tạo lập văn bản.

+ Đối với hoạt động dạy nói – nghe, giáo viên chỉ dành ít thời gian giao nhiệm vụ theo định hướng trong sách giáo khoa. Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh thuyết trình, trình bày (theo bài tập trong sách giáo khoa), thời gian chuẩn bị không cần nhiều (vì đã có nội dung từ đọc và viết). Tổ chức cho học sinh thuyết trình, trao đổi, phản biện về nội dung và kỹ năng nói càng nhiều học sinh trình bày càng tốt. Từ đó, giáo viên nhận xét về k năng và nội dung nói, nghe của học sinh.

2.2 Đổi mới kiểm tra, đánh giá

-     Tổ triển khai nội dung đổi mới kiểm tra đánh giá trong sinh hoạt chuyên môn ngay từ đầu năm học. Điểm mới đáng chú ý là hình thức đánh giá phong phú hơn. Tổ thống nhất thực hiện đa dạng hình thức kiểm tra đánh giá như sau:

+ Đánh giá thường xuyên thực hiện linh hoạt hình thức: không phải chỉ làm bài trên giấy, mà cho điểm qua dự án học tập, các cuộc tranh biện, hùng biện…; thường xuyên đánh giá cả bốn kĩ năng đọc - viết - nói - nghe.

+ Đánh giá định k được thực hiện theo đúng tinh thần mục tiêu của Chương trình GDPT 2018.

-     Tổ thảo luận thống nhất cấu trúc đề kiểm tra định kì: tự luận 100%; khi xây dựng đề chú ý lựa chọn ngữ liệu đọc hiểu (phù hợp với thể loại, tâm lý học sinh thpt, có tính giáo dục và tính thẫm mĩ), cách đặt câu hỏi (như câu hỏi trong SGK, câu hỏi đề thi TN của BGD), đề theo khung ma trận và bản đặc tả, đề được phản biện trước khi kiểm tra,… Chú trọng xây dựng đề mở để phát huy khả năng sáng tạo của học sinh. Đặc biệt, quán triệt việc lấy ngữ liệu ngoài sách giáo khoa để xây dựng đề đọc hiểu và viết.

-     Khi đề đã sử dụng kiểm tra xong, Tổ phân tích, đánh giá những hạn chế (nếu có) để rút kinh nghiệm.

Trên đây là vài ý trao đổi cùng với quý thầy cô, rất mong được lắng nghe, chia sẻ kinh nghiệm của quý thầy cô.

                                                                                                  

___________Hết___________

Thứ Tư, 26 tháng 6, 2019

PHÁT BIỂU CỦA GV TRONG LỄ TRI ÂN CỦA HS NĂM HỌC 2018-2019


Kính thưa quý đại biểu, kính thưa cô Nguyễn Thị Thúy Ba – HT nhà trường, kính thưa quý đồng nghiệp, quý phụ huynh cùng toàn thể học sinh yêu mến!
Cách đây 3 năm, cánh cổng trường Nguyễn Trãi mở rộng để đón chào các em, sân trường trải đầy nắng thu, nâng nhẹ bước chân các em, thầy cô giang rộng vòng tay đón các em và đưa các em đi vào con đường tri thức. Tiếng trống trường giòn giã ngày khai giảng năm ấy như muốn động viên các em hãy cố gắng miệt mài kinh sử để thành người hữu ích.
Thắm thoát mà đã 3 ba năm, thời gian cứ lao đi về phía trước, không đợi chờ một ai. Hôm nay, các em còn một dịp cuối, tề tựu nơi đây, để ôn lại những kỉ niệm tuổi học trò. Rồi ngày mai đây, các em chính thức rời xa vòng tay của thầy cô, bạn bè và rời xa mái trường Nguyễn Trãi. Và cũng từ hôm nay, các em đã thật sự trưởng thành, các em thật sự bước vào xã hội đầy chong gai, thử thách. Các em phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc đời, về tương lai của mình.
Các em học sinh thương yêu. Tất cả những thầy cô đang có mặt trong thời khắc thiêng liêng này – thời khắc được chứng kiến sự trưởng thành khôn lớn của các em - rất hạnh phúc, rất vui mừng vì được nghe những lời tri ân chân thành xuất phát tự tấm lòng của các em.
Cũng như cha mẹ các em, thầy cô rất mong các em được nên người. Cha mẹ không ngại nắng mưa kiếm tiền để cho các em có điều kiện ăn học, thầy cô không ngại ngày đêm đưa các em đến với bến bờ tri thức. Nhưng có những lúc các em làm cho thầy cô buồn. Hôm nay, các em đã nhận ra được điều đó, thầy cô rất vui vì các em thật sự trưởng thành. Thầy cô không giận các em đâu, vẫn yêu thương các em, dù các em tung bay đến chân trời nào, trong công việc nào. Thầy cô chúc các em bước vào môi trường mới thật thành công, đứng vững được trên đôi chân của mình, tiếp nối và làm rạng rỡ truyền thống vẻ vang của ngôi trường Nguyễn Trãi trong hơn 50 năm qua. Đó là cách các em tri ân thầy cô thiết thực nhất.
Các em học sinh thương yêu. Cuộc đời là những cuộc hợp – tan. Ba năm trước, chúng ta có duyên gặp nhau. Ba năm sau, tức bây giờ, chúng ta phải nói lời chia tay. Thầy mong rằng hình ảnh ngôi trường này, hình ảnh thầy cô, bạn bè này, mãi mãi theo các em, làm động lực cho các em phấn đấu.
Được nói lời dặn dò các em, thầy xin nhắc nhở các em những vấn đề sau:
- Thứ nhất, các em phải tự tin, có ý chí, quyết tâm trong học tập hay trong công việc. Có được phẩm chất đó các em sẽ thành công. Trong kì thi THPTQG đang tới gần, các em phải tự tin để có kết quả thi tốt nhất; tự tin tung cánh đến chân trời tri thức mới khi rời ra mái trường phổ thông chứa chan kỉ niệm.
- Thứ hai, các em phải trở thành người tử tế. Tử tế chính với bản thân mình bằng cách tạo cho mình một tương lai tốt đẹp. Tử tế với những người thân trong gia đình, phải biết yêu thương ông bà, cha mẹ, anh chị em; đừng để họ phải lo lắng, khổ đau vì mình. Tử tế với mọi người, với cộng đồng; sống có trách nhiệm với xã hội, không phản bội truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Thứ ba, hôm nay các em được ngồi ở đây để tri ân thầy cô, ba mẹ; thầy mong các em ghi nhớ rằng, nhà trường là một bệ phóng, gia đình là một bệ phóng, khi các em bay lên cao, các em hãy luôn nhớ tới bệ phóng ấy. Thầy mong các em hãy chiêm nghiệm ra một điều rằng: Khi ta ở chỉ là nơi đất ở, khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn.
- Thứ tư, cuộc đời ngoài kia nhiều chông gai, thử thách lắm, các em phải vững vàng làm chủ bản thân mình, nếu có vấp ngã hãy nhanh chóng đứng lên và hãy nhìn lại để rút ra bài học cho bản thân mình. Thầy tin rằng các em sẽ làm được điều đó để trở thành công dân có ích sau này.
Lời cuối, thầy chúc các em gặt được thành công trong kì thi sắp tới để từ đó tiến xa hơn nữa … Thầy cô vẫn luôn yêu thương các em.
Xin trân trọng kính chào.



Thứ Hai, 10 tháng 12, 2018

NÉT KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC QUA TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

NÉT KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC QUA TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
http://vannghedanang.org.vn/nonnuoc/chitiet.php?id=555&so=21
Nguyễn Thị Thu Thủy
Con nghe Bác tưởng nghe lời non nước
Tiếng của ngày xưa và cả tiếng mai sau
Tố Hữu
Đã sáu mươi lăm năm trôi qua nhưng lời Bác đọc Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình dường như vẫn còn vọng mãi. Chất giọng trầm ấm, chậm rãi vang vang trong buổi sáng mùa thu rực nắng trước hàng triệu quốc dân đồng bào có sức thu hút một cách kì lạ. Bởi trong giờ phút trọng đại đó, Bác đã tuyên bố chấm dứt chế độ thuộc địa phong kiến ở nước ta và mở ra kỉ nguyên độc lập tự do của dân tộc. Tuyên ngôn độc lập không chỉ có giá trị lịch sử, giá trị pháp lý mà còn có giá trị văn chương. Với kết cấu mạch lạc, văn phong, khúc chiết, tác phẩm đã thể hiện sự kế thừa và sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc so với các văn bản tuyên bố độc lập dân tộc trong văn học trung đại.
 Văn kiện lịch sử này không phải chỉ được đọc trước quốc dân đồng bào mà còn trước thế giới, đặc biệt là trước bọn đế quốc thực dân đang chuẩn bị tái chiếm nước ta. Mặt khác, tại thời điểm này thực dân Pháp tuyên bố: Đông Dương là đất bảo hộcủa người Pháp bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đã đầu hàng, vậy Đông Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp. Bản tuyên ngôn đã dứt khoát bác bỏ những luận điểm đó. Vì vậy đối tượng hướng tới của văn bản này, không chỉ là hai mươi triệu đồng bào Việt Nam để khẳng định quyền độc lập dân tộc, nhân dân tiến bộ thế giới để tranh thủ sự ủng hộ mà còn hướng đến bọn đế quốc: Anh, Pháp, Mỹ nhằm ngăn chặn mọi âm mưu xâm lược của chúng.
Tuyên ngôn độc lập là bản hùng ca của thời đại mới bởi nó đã kế thừa và phát triển bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Mặc dù hai tác phẩm trên được ví như những bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm của quân dân Đại Việt song văn bản của Hồ Chí Minh mới là một Tuyên ngôn độc lập đúng nghĩa. Bởi tác phẩm có lối viết ngắn gọn, hàm súc đầy sức thuyết phục, lập luận chặt chẽ, lời văn hùng hồn. Tiếp cận Tuyên ngôn độc lậptrên cơ sở so sánh nét tiếp thu và sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc so với các văn bản trên nhằm thấy được những đặc sắc trong phong cách văn chính luận của Bác.
Như thông thường, tác phẩm cũng gồm ba phần; phần mở đầu tác giả đã tạo được cơ sở pháp lý và chính nghĩa cho Tuyên ngôn độc lập. Nếu ở Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt vào đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép: Nam quốc sơn hà Nam đế cư (sông núi nước Nam vua Nam ở); trong Bình ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã khẳng định một chân lý lịch sử: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo thì Tuyên ngôn độc lập mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nói nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn của thế giới. Câu thứ nhất được trích từ Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Câu thứ hai được rút ra từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền Cách mạng Pháp năm 1791: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đây là một dụng ý chiến lược và chiến thuật của Bác. Người muốn dùng lời của ông cha người Pháp và người Mỹ để đập vào lưng của con cháu họ, dùng cây gậy độc lập tự do đánh vào lưng những kẻ thù của độc lập tự do. Nếu câu mở đầu của Nam quốc sơn hà là lời khẳng định chủ quyền dân tộc, mở đầu của Bình Ngô đại cáo là một triết lí nhân nghĩa gắn với an dân thì mở đầu của Tuyên ngôn độc lập là một lời tranh luận ngầm nhằm lột tẩy những mưu mô thủ đoạn của bọn thực dân. Cách trích dẫn ấy vừa tạo được cơ sở vững chắc cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, vừa sảng khoái niềm tự hào dân tộc. Như ngày xưa Nguyễn Trãi đã từng viết: Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập – Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương nhằm đặt ngang hàng các triều đại nước Việt với các triều đại Trung Hoa cổ. Lý Thường Kiệt đã từng cho quân sĩ nấp vào đền Trương Hống, Trương Hán bên sông Như Nguyệt để đọc lên lời sấm:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Như đẳng hành khan thủ bại hư.
Tạm dịch: Sông núi nước Nam, vua Nam
Rành rành định phận, ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Nguyễn Ái Quốc muốn đặt ba cuộc Cách mạng tư sản ở Mỹ năm 1776, Cách mạng tư sản năm 1791 và Cách mạng tháng tám năm 1945 của dân tộc Việt Nam trong vị thế ngang bằng nhau. Đây cũng chính là một nét kế thừa sáng tạo cách làm của các vị tiền bối.
Trong phần mở đầu, ngoài việc trích dẫn lời lẽ của hai bản Tuyên ngôn độc lập trên, Bác còn thể hiện một tư duy đầy biến hóa và sáng tạo qua luận điểm suy rộng ra: Tất cả các dân tộc đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Ở đây, Bác đã nâng từ quyền con người lên thành quyền dân tộc, từ vấn đề nhân quyền, vấn đề quyền cá nhân lên thành quyền của mọi dân tộc bị áp bức trên thế giới. Một nhà văn hóa nước ngoài đã viết: Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình.
Phần giữa của Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã thiết lập cơ sở thực tế cho văn bản bằng việc đưa dẫn chứng cụ thể để tố cáo tội ác giặc Pháp và nêu cao cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc ta. Ở phần này, Hồ Chí Minh đã thể hiện nét tương đồng với Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi. Ức Trai tiên sinh đã từng vạch tội giặc Minh mượn gió bẻ măng, lợi dung thời cơ phù Trần diệt Hồ để thôn tính nước ta: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà - Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa. Trong tác phẩm của mình, Bác đã dùng lập luận bác bỏ để vạch trần năm tội ác về chính trị, bốn tội ác về kinh tế của thực dân Pháp. Nếu nước mẹPháp đưa ra chiêu bài bảo hộ thì Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ: Trong năm năm, chúng bán nước ta cho Nhật… Năm xưa, Nguyễn Trãi đã khái quát lại tội ác tày trời và chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Ngô qua hai câu thơ: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.  Tuyên ngôn độc lập, với văn phong đĩnh đạc, giàu tính luận chiến, Bác đã viết: Chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Với cách lặp kết cấu cú pháp, điệp ngữ “chúng”, kết cấu song hành, tăng tiến,Tuyên ngôn độc lập là bản tuyên cáo chi tiết những hành động tham tàn bạo ngược của giặc Tây trên đất nước Việt Nam. Đặc biệt, ở Tuyên ngôn độc lập, với những dẫn chứng, số liệu cụ thể, bằng ngòi bút giàu sức chiến đấu, Nguyễn Ái Quốc còn vạch rõ thủ đoạn thâm độc của chính sách ngu dân, cai trị dân tộc Việt Nam bằng rượu và thuốc phiện, lập nhà tù nhiều hơn trường học. Nước Pháp ở thời điểm này đang rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế; thay vì đổ xuống biển hàng tấn rượu thì bọn thực dân đã mở rộng khai thác thuộc địa sang các nước Đông Dương và biến các nước này trở thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa của chúng. Vì vậy chúng cấm người dân Việt Nam không được nấu rượu bằng các sản vật địa phương như gạo, mía, sắn mà phải dùng rượu Pháp. Trở lại những năm ba mươi của thế kỷ hai mươi, ta mới thấy hết được không khí ngột ngạt, đau khổ của thôn xóm Việt Nam. Khắp nơi , bọn tay sai phong kiến và thực dân Pháp truy tìm, bắt bớ bỏ tù hàng ngàn người dân vì tội nấu “rượu lậu”. Bên cạnh đó, bọn chúng cho phép các tiệm hút được mở công khai ở Hà Nội, Hải Phòng nhằm làm suy nhược sức khỏe và băng hoại ý chí đấu tranh của tầng lớp thanh niên ta. Lên án âm mưu thâm độc này, trong Tuyên ngôn độc lập, Bác viết: Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Ở truyện ngắn Vi hành, qua lời thư gửi người em họ, tác giả đã trực tiếp lên án tội lỗi của vua Khải Định thừa lệnh quan thầy Pháp đầu độc nhân dân ta bằng rượu và thuốc phiện đưa họ vào vòng đói khổ: Tôi không được rõ ý đồ nhà vi hành của chúng ta ra sao? Phải chăng là ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là A-lêch-xăng Đệ nhất có được sung sướng, có được uống nhiều rượu và được hút nhiều thuốc phiện bằng dân Nam, dưới quyền ngự trị của ngài hay không? Bên cạnh việc sử dụng lập luận bác bỏ và những dẫn chứng xác thực để tố cáo tội ác kẻ thù, Nguyễn Ái Quốc còn đưa ra những số liệu cụ thể, thời gian chính xác về các cuộc đấu tranh giành hòa bình của dân ta. Đây là những cơ sở thực tế vững chắc, chứng cứ hùng hồn để đập tan lời lẽ của bọn thực dân là nhờ phe Đồng minh chiến thắng phe Phát xít nên Nhật đầu hàng, dân ta mới giành độc lập: Sự thật là mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải tay Pháp. Để có được thắng lợi vĩ đại đó, ta phải đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt thậm chí xương máu của hàng triệu liệt sĩ. Điệp ngữ “ sự thật là” vang lên một cách sảng khoái khiến trái tim của hàng triệu dân náo nức, mê say. Trong Nam quốc sơn hà, nhà thơ vị tướng đời Lý đã hùng hồn lên tiếng: Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm – Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. Trong Tuyên ngôn độc lập, Bác đã ngợi ca thái độ khoan hồng và nhân đạo của người dân đất Việt: Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản cho họ. Tinh thần nhân nghĩa đó vốn xuất hiện từ lâu trong đạo lý dân tộc: Đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại. Trong truyện cổ dân gian, khi nghe Thạch Sanh đàn, quân giặc rụng rời chân tay và xin hàng. Trước khi chúng về nước, Thạch Sanh không chỉ tha bổng mà còn cấp cho chúng niêu cơm “ăn mãi không hết”... Truyền thống ấy đặc biệt được kết tinh trong trang viết của Nguyễn Trãi: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn – Lấy chí nhân mà thay cường bạo. Tư tưởng nhân nghĩa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong Bình Ngô đại cáo và cuộc đấu tranh chống quân Minh của quân dân Đại Việt. Sau khi giặc đầu hàng, lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn đã có những hành động hết sức cao thượng: Mã Kì, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà hồn bay phách lạc – Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà tim đập chân run. Sự thảm hại của kẻ thù vừa làm tôn lên khí thế hào hùng của nghĩa quân đồng thời càng làm nổi bật tính chất chính nghĩa, nhân đạo sáng ngời của cuộc kháng chiến chống quân Ngô thuở nào.
Như vậy ở phần hai, Bác đã xác lập một nền tảng vững chắc cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam. Độc lập tự do mãi mãi là khát vọng cháy bỏng của mỗi một con người trên dải đất cong cong hình chữ S này: Tự do đã nở hoa hồng – Trong dòng máu đỏ, trên đồng Việt Nam. Lời kết thúc Bình Ngô đại cáo với sự hòa quyện giữa cảm hứng độc lập và cảm hứng vũ trụ, Ức Trai tiên sinh trịnh trọng tuyên bố nền độc lập tự do: Xã tắc từ nay vững bền – Giang san từ đây đổi mới – Càn khôn bỉ mà lại thái – Nhật nguyệt hối mà lại minh – Muôn thuở nền thái bình vững chắc – Ngàn năm, vết nhục nhã sạch làu.  Tuyên ngôn độc lập, trước khi công bố quyền được hưởng tự do độc lập một cách xứng đáng của dân tộc ta, Hồ Chí Minh đã tuyên bố thoát lí mọi quan hệ với thực dân, xóa bỏ mọi hiệp ước, mọi quyền lợi của Pháp trên đất nước Việt Nam. Đây là một việc làm vô cùng có ý nghĩa. Để thiết lập một đất nước Việt Nam mới và mở ra một kỉ nguyên độc lập tự do của đất nước, ta phải xóa bỏ mọi ràng buộc, mọi mối quan hệ với thực dân Pháp, phải đập tan mọi luận điệu của Đờ Gôn (tướng Pháp) và bọn thực dân phản động Pháp đang âm mưu tái chiếm Đông Dương: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Đoạn văn gồm ba ý, xây dựng theo lối tăng cấp: quyền hưởng tự do độc lập của dân tộc, hưởng tự do độc lập là sự thực, quyết tâm giữ vững độc lập tự do bằng mọi giá của con người Việt Nam. Đây là lời tuyên bố hào hùng, là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu dân(Trần Dân Tiên). Chính Hồ Chí Minh đã tự đánh giá tác phẩm là một thành công khiến Người cảm thấy sung sướng trong cả cuộc đời viết văn, làm báo đầy kinh nghiệm của mình.
Về tổng thể, Tuyên ngôn độc lập có điểm tương đồng giữa các phần như Bình Ngô đại cáo song bố cục ngắn gọn và chặt chẽ hơn. Nếu hai tác phẩm trên sáng tác theo các thể thơ văn cổ Trung đại thì Tuyên ngôn độc lập viết theo phong cách văn chính luận hiện đại với lập luận sắc sảo, bằng chứng rõ ràng, hình ảnh gợi cảm, ngôn từ chính xác, kết hợp sâu sắc giữa văn học và chính trị, kế thừa và phát triển. Tính đến hôm nay tác phẩm sắp bước vào tuổi thất thập cổ lai hy song nó vẫn còn giá trị bền vững với chúng ta. Mọi vật đều sợ thời gian bởi thời gian sẽ phủ mờ lên tất cả, song thời gian lại sợ các vĩ nhân bởi sự tồn tại của các vĩ nhân là trường cửu. Đó là trường hợp của Bác và sự nghiệp văn chính luận của Người, trong đó có Tuyên ngôn độc lập. Tìm hiểu tác phẩm của Bác ta hiểu hơn tầm văn hóa, chiến lược của một vị lãnh tụ trong việc phát huy quan điểm dùng văn chương làm vũ khí phục vụ Cách mạng.
Mỗi lần nghe lại tiếng Bác đọc Tuyên ngôn độc lập, chúng ta lại bồi hồi xúc động. Lời Bác như vẫn còn đâu đây nhắc nhở cháu con đất Việt không ngừng phấn đấu bảo vệ chủ quyền dân tộc, xây dựng đất nước sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
N.T.T.T


Thứ Ba, 21 tháng 8, 2018

SO SÁNH 3 BẢN TUYÊN NGÔN CỦA VIỆT NAM

NÉT KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC QUA TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP http://vannghedanang.org.vn/nonnuoc/chitiet.php?id=555&so=21 Nguyễn Thị Thu Thủy Con nghe Bác tưởng nghe lời non nước Tiếng của ngày xưa và cả tiếng mai sau Tố Hữu Đã sáu mươi lăm năm trôi qua nhưng lời Bác đọc Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình dường như vẫn còn vọng mãi. Chất giọng trầm ấm, chậm rãi vang vang trong buổi sáng mùa thu rực nắng trước hàng triệu quốc dân đồng bào có sức thu hút một cách kì lạ. Bởi trong giờ phút trọng đại đó, Bác đã tuyên bố chấm dứt chế độ thuộc địa phong kiến ở nước ta và mở ra kỉ nguyên độc lập tự do của dân tộc. Tuyên ngôn độc lập không chỉ có giá trị lịch sử, giá trị pháp lý mà còn có giá trị văn chương. Với kết cấu mạch lạc, văn phong, khúc chiết, tác phẩm đã thể hiện sự kế thừa và sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc so với các văn bản tuyên bố độc lập dân tộc trong văn học trung đại. Văn kiện lịch sử này không phải chỉ được đọc trước quốc dân đồng bào mà còn trước thế giới, đặc biệt là trước bọn đế quốc thực dân đang chuẩn bị tái chiếm nước ta. Mặt khác, tại thời điểm này thực dân Pháp tuyên bố: Đông Dương là đất bảo hộcủa người Pháp bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đã đầu hàng, vậy Đông Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp. Bản tuyên ngôn đã dứt khoát bác bỏ những luận điểm đó. Vì vậy đối tượng hướng tới của văn bản này, không chỉ là hai mươi triệu đồng bào Việt Nam để khẳng định quyền độc lập dân tộc, nhân dân tiến bộ thế giới để tranh thủ sự ủng hộ mà còn hướng đến bọn đế quốc: Anh, Pháp, Mỹ nhằm ngăn chặn mọi âm mưu xâm lược của chúng. Tuyên ngôn độc lập là bản hùng ca của thời đại mới bởi nó đã kế thừa và phát triển bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Mặc dù hai tác phẩm trên được ví như những bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm của quân dân Đại Việt song văn bản của Hồ Chí Minh mới là một Tuyên ngôn độc lập đúng nghĩa. Bởi tác phẩm có lối viết ngắn gọn, hàm súc đầy sức thuyết phục, lập luận chặt chẽ, lời văn hùng hồn. Tiếp cận Tuyên ngôn độc lậptrên cơ sở so sánh nét tiếp thu và sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc so với các văn bản trên nhằm thấy được những đặc sắc trong phong cách văn chính luận của Bác. Như thông thường, tác phẩm cũng gồm ba phần; phần mở đầu tác giả đã tạo được cơ sở pháp lý và chính nghĩa cho Tuyên ngôn độc lập. Nếu ở Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt vào đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép: Nam quốc sơn hà Nam đế cư (sông núi nước Nam vua Nam ở); trong Bình ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã khẳng định một chân lý lịch sử: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo thì Tuyên ngôn độc lập mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nói nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn của thế giới. Câu thứ nhất được trích từ Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Câu thứ hai được rút ra từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền Cách mạng Pháp năm 1791: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đây là một dụng ý chiến lược và chiến thuật của Bác. Người muốn dùng lời của ông cha người Pháp và người Mỹ để đập vào lưng của con cháu họ, dùng cây gậy độc lập tự do đánh vào lưng những kẻ thù của độc lập tự do. Nếu câu mở đầu của Nam quốc sơn hà là lời khẳng định chủ quyền dân tộc, mở đầu của Bình Ngô đại cáo là một triết lí nhân nghĩa gắn với an dân thì mở đầu của Tuyên ngôn độc lập là một lời tranh luận ngầm nhằm lột tẩy những mưu mô thủ đoạn của bọn thực dân. Cách trích dẫn ấy vừa tạo được cơ sở vững chắc cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, vừa sảng khoái niềm tự hào dân tộc. Như ngày xưa Nguyễn Trãi đã từng viết: Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập – Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương nhằm đặt ngang hàng các triều đại nước Việt với các triều đại Trung Hoa cổ. Lý Thường Kiệt đã từng cho quân sĩ nấp vào đền Trương Hống, Trương Hán bên sông Như Nguyệt để đọc lên lời sấm: Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Như đẳng hành khan thủ bại hư. Tạm dịch: Sông núi nước Nam, vua Nam ở Rành rành định phận, ở sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. Nguyễn Ái Quốc muốn đặt ba cuộc Cách mạng tư sản ở Mỹ năm 1776, Cách mạng tư sản năm 1791 và Cách mạng tháng tám năm 1945 của dân tộc Việt Nam trong vị thế ngang bằng nhau. Đây cũng chính là một nét kế thừa sáng tạo cách làm của các vị tiền bối. Trong phần mở đầu, ngoài việc trích dẫn lời lẽ của hai bản Tuyên ngôn độc lập trên, Bác còn thể hiện một tư duy đầy biến hóa và sáng tạo qua luận điểm suy rộng ra: Tất cả các dân tộc đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Ở đây, Bác đã nâng từ quyền con người lên thành quyền dân tộc, từ vấn đề nhân quyền, vấn đề quyền cá nhân lên thành quyền của mọi dân tộc bị áp bức trên thế giới. Một nhà văn hóa nước ngoài đã viết: Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình. Phần giữa của Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã thiết lập cơ sở thực tế cho văn bản bằng việc đưa dẫn chứng cụ thể để tố cáo tội ác giặc Pháp và nêu cao cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc ta. Ở phần này, Hồ Chí Minh đã thể hiện nét tương đồng với Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi. Ức Trai tiên sinh đã từng vạch tội giặc Minh mượn gió bẻ măng, lợi dung thời cơ phù Trần diệt Hồ để thôn tính nước ta: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà - Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa. Trong tác phẩm của mình, Bác đã dùng lập luận bác bỏ để vạch trần năm tội ác về chính trị, bốn tội ác về kinh tế của thực dân Pháp. Nếu nước mẹPháp đưa ra chiêu bài bảo hộ thì Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ: Trong năm năm, chúng bán nước ta cho Nhật… Năm xưa, Nguyễn Trãi đã khái quát lại tội ác tày trời và chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Ngô qua hai câu thơ: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Ở Tuyên ngôn độc lập, với văn phong đĩnh đạc, giàu tính luận chiến, Bác đã viết: Chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Với cách lặp kết cấu cú pháp, điệp ngữ “chúng”, kết cấu song hành, tăng tiến,Tuyên ngôn độc lập là bản tuyên cáo chi tiết những hành động tham tàn bạo ngược của giặc Tây trên đất nước Việt Nam. Đặc biệt, ở Tuyên ngôn độc lập, với những dẫn chứng, số liệu cụ thể, bằng ngòi bút giàu sức chiến đấu, Nguyễn Ái Quốc còn vạch rõ thủ đoạn thâm độc của chính sách ngu dân, cai trị dân tộc Việt Nam bằng rượu và thuốc phiện, lập nhà tù nhiều hơn trường học. Nước Pháp ở thời điểm này đang rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế; thay vì đổ xuống biển hàng tấn rượu thì bọn thực dân đã mở rộng khai thác thuộc địa sang các nước Đông Dương và biến các nước này trở thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa của chúng. Vì vậy chúng cấm người dân Việt Nam không được nấu rượu bằng các sản vật địa phương như gạo, mía, sắn mà phải dùng rượu Pháp. Trở lại những năm ba mươi của thế kỷ hai mươi, ta mới thấy hết được không khí ngột ngạt, đau khổ của thôn xóm Việt Nam. Khắp nơi , bọn tay sai phong kiến và thực dân Pháp truy tìm, bắt bớ bỏ tù hàng ngàn người dân vì tội nấu “rượu lậu”. Bên cạnh đó, bọn chúng cho phép các tiệm hút được mở công khai ở Hà Nội, Hải Phòng nhằm làm suy nhược sức khỏe và băng hoại ý chí đấu tranh của tầng lớp thanh niên ta. Lên án âm mưu thâm độc này, trong Tuyên ngôn độc lập, Bác viết: Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược. Ở truyện ngắn Vi hành, qua lời thư gửi người em họ, tác giả đã trực tiếp lên án tội lỗi của vua Khải Định thừa lệnh quan thầy Pháp đầu độc nhân dân ta bằng rượu và thuốc phiện đưa họ vào vòng đói khổ: Tôi không được rõ ý đồ nhà vi hành của chúng ta ra sao? Phải chăng là ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là A-lêch-xăng Đệ nhất có được sung sướng, có được uống nhiều rượu và được hút nhiều thuốc phiện bằng dân Nam, dưới quyền ngự trị của ngài hay không? Bên cạnh việc sử dụng lập luận bác bỏ và những dẫn chứng xác thực để tố cáo tội ác kẻ thù, Nguyễn Ái Quốc còn đưa ra những số liệu cụ thể, thời gian chính xác về các cuộc đấu tranh giành hòa bình của dân ta. Đây là những cơ sở thực tế vững chắc, chứng cứ hùng hồn để đập tan lời lẽ của bọn thực dân là nhờ phe Đồng minh chiến thắng phe Phát xít nên Nhật đầu hàng, dân ta mới giành độc lập: Sự thật là mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải tay Pháp. Để có được thắng lợi vĩ đại đó, ta phải đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt thậm chí xương máu của hàng triệu liệt sĩ. Điệp ngữ “ sự thật là” vang lên một cách sảng khoái khiến trái tim của hàng triệu dân náo nức, mê say. Trong Nam quốc sơn hà, nhà thơ vị tướng đời Lý đã hùng hồn lên tiếng: Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm – Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. Trong Tuyên ngôn độc lập, Bác đã ngợi ca thái độ khoan hồng và nhân đạo của người dân đất Việt: Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản cho họ. Tinh thần nhân nghĩa đó vốn xuất hiện từ lâu trong đạo lý dân tộc: Đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại. Trong truyện cổ dân gian, khi nghe Thạch Sanh đàn, quân giặc rụng rời chân tay và xin hàng. Trước khi chúng về nước, Thạch Sanh không chỉ tha bổng mà còn cấp cho chúng niêu cơm “ăn mãi không hết”... Truyền thống ấy đặc biệt được kết tinh trong trang viết của Nguyễn Trãi: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn – Lấy chí nhân mà thay cường bạo. Tư tưởng nhân nghĩa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong Bình Ngô đại cáo và cuộc đấu tranh chống quân Minh của quân dân Đại Việt. Sau khi giặc đầu hàng, lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn đã có những hành động hết sức cao thượng: Mã Kì, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà hồn bay phách lạc – Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà tim đập chân run. Sự thảm hại của kẻ thù vừa làm tôn lên khí thế hào hùng của nghĩa quân đồng thời càng làm nổi bật tính chất chính nghĩa, nhân đạo sáng ngời của cuộc kháng chiến chống quân Ngô thuở nào. Như vậy ở phần hai, Bác đã xác lập một nền tảng vững chắc cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam. Độc lập tự do mãi mãi là khát vọng cháy bỏng của mỗi một con người trên dải đất cong cong hình chữ S này: Tự do đã nở hoa hồng – Trong dòng máu đỏ, trên đồng Việt Nam. Lời kết thúc Bình Ngô đại cáo với sự hòa quyện giữa cảm hứng độc lập và cảm hứng vũ trụ, Ức Trai tiên sinh trịnh trọng tuyên bố nền độc lập tự do: Xã tắc từ nay vững bền – Giang san từ đây đổi mới – Càn khôn bỉ mà lại thái – Nhật nguyệt hối mà lại minh – Muôn thuở nền thái bình vững chắc – Ngàn năm, vết nhục nhã sạch làu. Ở Tuyên ngôn độc lập, trước khi công bố quyền được hưởng tự do độc lập một cách xứng đáng của dân tộc ta, Hồ Chí Minh đã tuyên bố thoát lí mọi quan hệ với thực dân, xóa bỏ mọi hiệp ước, mọi quyền lợi của Pháp trên đất nước Việt Nam. Đây là một việc làm vô cùng có ý nghĩa. Để thiết lập một đất nước Việt Nam mới và mở ra một kỉ nguyên độc lập tự do của đất nước, ta phải xóa bỏ mọi ràng buộc, mọi mối quan hệ với thực dân Pháp, phải đập tan mọi luận điệu của Đờ Gôn (tướng Pháp) và bọn thực dân phản động Pháp đang âm mưu tái chiếm Đông Dương: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Đoạn văn gồm ba ý, xây dựng theo lối tăng cấp: quyền hưởng tự do độc lập của dân tộc, hưởng tự do độc lập là sự thực, quyết tâm giữ vững độc lập tự do bằng mọi giá của con người Việt Nam. Đây là lời tuyên bố hào hùng, là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu dân(Trần Dân Tiên). Chính Hồ Chí Minh đã tự đánh giá tác phẩm là một thành công khiến Người cảm thấy sung sướng trong cả cuộc đời viết văn, làm báo đầy kinh nghiệm của mình. Về tổng thể, Tuyên ngôn độc lập có điểm tương đồng giữa các phần như Bình Ngô đại cáo song bố cục ngắn gọn và chặt chẽ hơn. Nếu hai tác phẩm trên sáng tác theo các thể thơ văn cổ Trung đại thì Tuyên ngôn độc lập viết theo phong cách văn chính luận hiện đại với lập luận sắc sảo, bằng chứng rõ ràng, hình ảnh gợi cảm, ngôn từ chính xác, kết hợp sâu sắc giữa văn học và chính trị, kế thừa và phát triển. Tính đến hôm nay tác phẩm sắp bước vào tuổi thất thập cổ lai hy song nó vẫn còn giá trị bền vững với chúng ta. Mọi vật đều sợ thời gian bởi thời gian sẽ phủ mờ lên tất cả, song thời gian lại sợ các vĩ nhân bởi sự tồn tại của các vĩ nhân là trường cửu. Đó là trường hợp của Bác và sự nghiệp văn chính luận của Người, trong đó có Tuyên ngôn độc lập. Tìm hiểu tác phẩm của Bác ta hiểu hơn tầm văn hóa, chiến lược của một vị lãnh tụ trong việc phát huy quan điểm dùng văn chương làm vũ khí phục vụ Cách mạng. Mỗi lần nghe lại tiếng Bác đọc Tuyên ngôn độc lập, chúng ta lại bồi hồi xúc động. Lời Bác như vẫn còn đâu đây nhắc nhở cháu con đất Việt không ngừng phấn đấu bảo vệ chủ quyền dân tộc, xây dựng đất nước sánh vai cùng các cường quốc năm châu. N.T.T.T

Thứ Tư, 30 tháng 8, 2017

KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT NĂM HỌC 2017 – 2018

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TÂY NINH
   ___________________

KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT NĂM HỌC 2017 – 2018
Ngày thi: 3 tháng 6 năm 2017
Môn thi: NGỮ VĂN (Chuyên)
Thời gian làm bài: 150 phút (Không kể thời gian giao đề)
---------------------------------------
ĐỀ CHÍNH THỨC
(Đề thi có 01 trang, thí sinh không phải chép đề vào giấy thi)
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (2,0 điểm)
Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 2:
…Tuy nhiên, nhiều năm gần đây lễ hội không còn yên vui như xưa. Sau nhiều năm bị cấm triệt để vì bị coi là trò mê tín dị đoan, đến nay lễ hội được khôi phục, mở cửa hết cỡ, bất chấp lễ hội gì, hành lễ ra sao. Trong các lễ hội ấy những người trẻ tham gia nhiệt tình nhất, ăn thua nhất, “máu me” nhất.
…Ở hội Xuân Đỉnh (Hà Nội), họ vác cả kiệu thánh đâm nát kính chiếc xe hơi của một phụ nữ vô ý chắn đường bất chấp người này quỳ xuống lạy lục van xin. Ở lễ hội đền Trần, những người trẻ đạp lên đầu lên cổ nhau, giật cả bảo kiếm trên bàn thờ, rồi lấy tiền chà xát lên kiếm.
Kinh hoàng nhất là lễ hội chém lợn ở làng Ném Thượng (Bắc Ninh). Sau khi con lợn bị dây trói căng ra bốn phía, “đao phủ” chặt một nhát đứt đôi con lợn thì những người trẻ tranh nhau lấy tiền quết máu lợn.
Không hiểu khi chà xát tiền lên kiếm báu, lên máu lợn người ta nghĩ đến cái gì? Nghĩ đến công danh cho bản thân hay lợi lộc cho gia đình? Liệu có ai trong số họ nghĩ đến tội ác?
(Trích “Những người trẻ ở lễ hội”, Đoàn Lê Giang, www.tuoitre.vn, 7/3/2015) 
Câu 1. Anh/chị hãy nhận xét về thái độ của tác giả thể hiện trong đoạn trích?
Câu 2. Xác định một biện pháp tu từ và nêu tác dụng của biện pháp tu từ ấy trong đoạn văn sau: Không hiểu khi chà xát tiền lên kiếm báu, lên máu lợn người ta nghĩ đến cái gì? Nghĩ đến công danh cho bản thân hay lợi lộc cho gia đình? Liệu có ai trong số họ nghĩ đến tội ác?
II. PHẦN LÀM VĂN (8.0 điểm)
Câu 1 (3 điểm)
Hãy viết bài văn ngắn trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến: Trách nhiệm là yếu tố cơ bản cần phải có để xây dựng và phát triển nhân cách của mỗi con người.
Câu 2 (5 điểm)
            Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, trong bài “Việt Bắc”, Tố Hữu đã viết:
"Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng

Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?"
(“Việt Bắc” - Tố Hữu)
Những dòng thơ trên gợi cho anh/chị liên tưởng đến lời tâm sự của tác giả nào trong một bài thơ mà anh/chị đã học ở chương trình Ngữ văn lớp 9, tập một? Anh/chị hãy chỉ rõ điểm đồng điệu giữa ý thơ của Tố Hữu và tâm sự của nhà thơ đó. Hãy phân tích niềm tâm sự sâu kín của tác giả trong bài thơ anh/chị đã tìm được.
----------Hết---------
Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm
Họ và tên thí sinh………………………………..Số báo danh…………………………………

Chữ kí của cán bộ coi thi 1:……………………Chữ kí của cán bộ coi thi 2:………………….

Thứ Năm, 10 tháng 12, 2015

BÀI THƠ: NHỚ ƠN THẦY

Sân trường ngập vắng lặng
Bỗng tiếng ve ngân vang
Giật mình nhớ bâng khuâng
Giấc mơ tà áo trắng.


Thầy ơi con đã hiểu
Nhọc nhằn nặng vai thầy
Con học hành cố gắng
Trở thành người trò ngoan.


Bao nhiêu là bụi phấn
Là bấy nhiêu nỗi niềm
Bao nhiêu là nét chữ
Là bấy nhiêu công thầy.

Cơn gió vô tình thổi
Tóc thầy màu mây khói
Cho con vào tương lai
Sao chưa kể thầy ơi!


Con nhớ mãi ơn thầy
Dù năm tháng đi qua
Như hoa kia vẫn trắng
Tỏa hương thơm cho đời.

(Viết năm 2015 với bút danh NGUYỄN NHẬT ĐÔNG)


Thứ Tư, 9 tháng 12, 2015

BÀI THƠ: ĐẤT NƯỚC VÀ THƠ VĂN



Khi Bác đọc Tuyên ngôn

Nước ta được Độc lập

Dân tộc chưa trọn vui

Pháp dã tâm quay lại

Tái xâm lược nước ta.

 

Tuổi trẻ đất Hà thành

Lên đường giữ biên cương

Ôi đoàn quân Tây Tiến!

Rất hào hùng, hào hoa

Xứng danh lính cụ Hồ.

 

Ở miền cao Tây Bắc

Bọn chúa đất lộng hành

Khiến Vợ chồng A Phủ

Phải bỏ làng Hồng Ngài

Đến Phiềng Sa sinh sống

 

Ở đồng bằng Bắc bộ

Nông dân cũng thê thảm

Miếng ăn quá chật vật

Thân phận như cọng rơm

Vợ nhặt rất dễ dàng

Chiến thắng Điện Biên Phủ,

Thực dân Pháp chạy dài.

Từ chiến khu Việt Bắc,

Cách Mạng về Hà Nội

Hòa bình được lập lại.

 

Ôi thiên nhiên Tây Bắc

Hung bạo mà trữ tình

Người lái đò Sông Đà

Trí dũng và tài hoa

Họa thành bức tranh mới.

 

Miền Nam ngùn ngụt khói

Mỹ khuấy động chiến trường

Bác Phạm Văn Đồng viết:

Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu,

Tỏa sáng trong văn nghệ.

 

Lên mảnh đất Tây Nguyên

Rừng xà nu bừng dậy

Che chở làng Xô Man

Anh Tnú thành anh hùng

Năm ngọn đuốc bốc cháy.

Xuống đồng bằng Cửu Long

Những đứa con cộng sản

Giành nhau đi giết giặc

Trả thù nhà nợ nước

Sáng ngời trên trang văn.

 

Biển nổi cơn cuồng phong

Sóng cồn cào dữ dội.

Biển hát lời bình yên

Sóng dạt dào hạnh phúc

Tình yêu cô gái trẻ.

 

Không có chiến tranh nào

Giết nổi lòng dân ta

Yêu nước và yêu đời

Đất Nước thật bình dị

Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm.

 

Sông Hương sao đẹp thế

Chở phù sa văn hóa

Bồi đắp đất kinh thành

Trang giai nhân tuyệt sắc

Ai mà khéo đặt tên?

Lưu Quang Vũ viết kịch

Trương Ba và hàng thịt

Cuộc chiến: sống hay chết?

Muôn mặt cuộc đời thường

Cho ta nhiều suy ngẫm.

 

Thơ văn cũng đổi mới

Đàn ghi ta của Lor-ca

Thơ siêu thực, tượng trưng

Cũng chứa đựng nỗi niềm

Đau xót bậc thiên tài.

 

Về vùng biển Miền Trung

Ngắm Chiếc thuyền ngoài xa

Nặng lòng ngư dân biển

Cuộc sống thật bấp bênh

Tình mẫu tử thiêng liêng.

 

Đất nước bốn ngàn năm

Nhiều thăng trầm, biến cố

Hóa thành văn thành thơ

Muôn đời sau tự hào.

TVT - 2015