I. MỞ BÀI
Kim Lân là cây bút chuyên về đề
tài nông thôn. Sáng tác của ông phản ánh một cách chân thực và xúc động cuộc
sống của người dân quê mà ông am hiểu sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lí của họ. Một
trong những sáng tác xuất sắc của Kim Lân là truyện ngắn “Vợ nhặt”. Tác
phẩm vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp vừa là bài
ca ca ngợi về sức sống và niềm tin của con người Việt Nam . Trong
truyện ngắn này Kim Lân đã xây dựng thành công hình tượng người “vợ nhặt”
– một hình tượng nghệ thuật độc đáo mang lại nhiều vẻ đẹp khuất lấp cần khám
phá.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát: Tâm sự về hoàn
cảnh ra đời của “Vợ nhặt” Kim Lân nói: “Ban đầu tôi viết một truyện dài có tên
là Xóm ngụ cư. Tôi viết đến chương thứ V thì dừng lại. Sau khi hoà bình
lập lại, tôi và Nguyên Hồng làm tờ báo Văn. Trong bản thảo Xóm ngụ cư có
một đoạn luôn ám ảnh tôi là đoạn viết về những người đói, về những buổi sáng ở
vùng quê người ta ra chợ nhặt xác người đi chôn. Tôi viết lại chương đó thành
truyện ngắn Vợ nhặt mà không đọc lại bản thảo cũ”. Truyện được
in trong tập “Con chó xấu xí”.
Bối cảnh của truyện là nạn đói
năm 1945, người chết đói như ngả rạ. Từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ đã có trên hai
triệu người chết. Tràng, một thanh niên nghèo khổ làm nghề đẩy xe bò thuê.
Giữa nạn đói đang diễn ra, Tràng dắt một người đàn bà về làm vợ.
Cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, bà cụ Tứ (mẹ Tràng) ngạc nhiên và ngay cả
bản thân Tràng cũng không tin đó là sự thật.
2. Nội dung phân tích
a. Người “vợ nhặt” là nạn nhân
của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh: Dưới ngòi bút của Kim Lân,
người vợ nhặt là người phụ nữ không tên không tuổi, không quê hương, không quá
khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho thị một cái
tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là cành củi khô trôi dạt
vào cuộc đời Tràng, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật
này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà
tôi”.Nhưng nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
- Thị xuất hiện vừa bằng ngoại
hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói:
+ Lần đầu thị xuất hiện là hình
ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh.
Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/
Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, thị: “ton ton chạy lại đẩy xe cho
Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên cũng rất nhiệt tình và
chẳng cần ý tứ.
+ Lần thứ hai, thị xuất hiện với
ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ nữ gầy vêu vao: “áo quần tả tơi
như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con
mắt trũng hoáy”. Có thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp
lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan
của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Vì đói mà thị trở nên: “chao
chát”,“chỏng lỏn”,“chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi
giao tiếp, nói chuyện. Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự
trọng của người con gái. Thị cứ thế mà đòi ăn. Được cho ăn, thị sẵn sàng: “sà
xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị
đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách. (So sánh thêm với
Đói – Thạch Lam) Giáo viên: Phan Danh Hiếu
b. Vẻ đẹp khuất lấp thể hiện phía
sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lòng ham sống
mãnh liệt. Lòng ham sống, khát vọng sống đã thôi thúc thị đồng ý theo
Tràng:
Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa: “có muốn theo tớ về nhà thì ra
khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng (mà
thường tâm lý im lặng là đồng ý). Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân
vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? Gốc tích ra sao? Thị nào
hay nào biết. Chỉ mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng
thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động
theo Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được
sống. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo
không Tràng (“theo trai” – chữ dùng của Kim Lân). Đó là ý thức bám lấy sự sống
là vì để được sống chứ không phải là loại người lẳng lơ. Cận kề bên cái chết,
người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái
thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là
một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: “Trong hoàn cảnh khốn cùng,
dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn
hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
c. Vẻ đẹp khuất lấp thể hiện phía
sau vẻ nhếch nhác, dơ dáy, người “vợ nhặt” lại là một người phụ nữ rất ý
tứ, biết điều:
Trên đường về nhà chồng tâm trạng
của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt
vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Trước cái nhìn“săm
soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Thị
ngượng nghịu, thiếu tự tin: “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón
rách tàng che nửa khuôn mặt”. Đó phải chăng là vẻ đẹp của cô dâu về nhà
chồng.
Về đến nhà chồng, nhìn thấy“ngôi
nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén
một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng
là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách.
Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả
những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là
thị đã ý thức được trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng
gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao.
Vào trong nhà, thị e thẹn, dè
dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“Ngồi mớm” – thế ngồi
bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào
bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực
thước trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng
vân vê tà áo đã rách bợt”. Giáo viên: Phan Danh Hiếu
d. Vẻ đẹp khuất lấp
còn thể hiện bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, người vợ nhặt lại là một
người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan, có ý thức xây dựng hạnh phúc gia
đình.
+ Sau đêm tân hôn, người phụ nữ
ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ
chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu
hôm qua thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn bao nhiêu thì hôm nay thị lại
hiền lành bấy nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời
ấy: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu,
đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài
tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng trước sự đổi
thay tích cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì
đã có sức cảm hóa với thị.
+ Trong bữa cơm đầu tiên tại gia
đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai
bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã
đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống
thúc thuế, thị nói với mẹ chồng:"Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta
không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho
người đói nữa đấy". Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về
con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người
đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ to lắm”. Qua đó, ta thấy
nhân vật vợ Tràng, "nàng dâu mới" cũng là:Người truyền tin
cách mạng.
Viết về sự đổi thay trong tâm lý
của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp
của người dân lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở đây.
Cũng qua hình ảnh người vợ nhặt và nhan đề độc đáo ấy, Kim Lân đã góp tiếng nói
lên án, tố cáo tội ác tày trời của bọn phong kiến, phát xít, thực dân đã đẩy
dân tộc ta vào hoàn cảnh khốn cùng. Giá trị của một con người trở nên rẻ rúng,
người ta có thể nhặt được vợ, thậm chí có vợ theo. Nhưng con người Việt Nam dù trong
hoàn cảnh nào họ cũng biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc lẫn nhau để hướng về
tương lai hi vọng trông chờ.
3. Nghệ thuật xây dựng nhân
vật: Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật
vào tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực,
tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ thuật
trần thuật hấp dẫn, kịch tính…
III. KẾT BÀI
Tóm lại, người “vợ nhặt” là một sáng tạo của Kim
Lân. Thông qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp.
Con người Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét