Giữa lúc xóm ngụ cư xơ xác, tiêu
điều trong nạn đói đầu năm 1945, vào một buổi chiều tà, Tràng- một người nông
dân nghèo, luống tuổi, thô kệch, lại dở hơi- dẫn một người phụ nữ về nhà.
Vì đang lâm cảnh ngộ đói rách
cùng đường nên chỉ qua vài lần gặp gỡ với một vài câu nói đùa, rồi cắm đầu ăn
một chặp hết bốn bát bánh đúc do Tràng “chiêu đãi”, người phụ nữ này ưng thuận
theo không anh về nhà
Mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón nhận
người con dâu trong tâm trạng vừa buồn vừa mừng, vừa lo âu, vừa hi vọng nhưng
không hề tỏ ra rẻ rúng người phụ nữ đã theo không con mình.
Đêm tân hôn của họ diễn ra trong
không khí chết chóc, tủi sầu từ xóm ngụ cư vọng tới
Sáng hôm sau, một buổi sáng mùa
hạ, nắng chói lói. Bà cụ Tứ và cô dâu mới xăm xắn dọn dẹp, quét tước trong
ngoài. Trước cảnh ấy, Tràng cảm thấy mình gắn bó và có trách nhiệm với cái nhà
của mình và thấy mình nên người, trông người vợ đúng là một người phụ nữ hiền
hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như lần đầu gặp nhau. Bà cụ
Tứ hồ hởi đãi hai con vài bát cháo loãng và một nồi chè cám.
Qua lời kể của người vợ, Tràng
dần dần hiểu được Việt Minh và trong óc Tràng hiện lên hình ảnh đám người đói
kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phất phới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét