NÉT KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
NGUYỄN ÁI QUỐC QUA TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
|
http://vannghedanang.org.vn/nonnuoc/chitiet.php?id=555&so=21
Nguyễn Thị Thu Thủy
Con nghe Bác tưởng nghe lời non nước
Tiếng của ngày xưa và cả tiếng mai sau
Tố Hữu
Đã sáu mươi lăm năm trôi qua nhưng lời Bác đọc Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình dường như
vẫn còn vọng mãi. Chất giọng trầm ấm, chậm rãi vang vang trong buổi sáng mùa
thu rực nắng trước hàng triệu quốc dân đồng bào có sức thu hút một cách kì
lạ. Bởi trong giờ phút trọng đại đó, Bác đã tuyên bố chấm dứt chế độ thuộc
địa phong kiến ở nước ta và mở ra kỉ nguyên độc lập tự do của dân tộc. Tuyên ngôn độc lập không chỉ có giá trị lịch sử, giá
trị pháp lý mà còn có giá trị văn chương. Với kết cấu mạch lạc, văn phong,
khúc chiết, tác phẩm đã thể hiện sự kế thừa và sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc so
với các văn bản tuyên bố độc lập dân tộc trong văn học trung đại.
Văn kiện lịch sử này không phải chỉ được
đọc trước quốc dân đồng bào mà còn trước thế giới, đặc biệt là trước bọn đế
quốc thực dân đang chuẩn bị tái chiếm nước ta. Mặt khác, tại thời điểm này
thực dân Pháp tuyên bố: Đông Dương là đất bảo
hộcủa người Pháp bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đã đầu hàng, vậy Đông Dương
đương nhiên phải trở lại với người Pháp. Bản tuyên ngôn đã dứt khoát bác bỏ
những luận điểm đó. Vì vậy đối tượng hướng tới của văn bản này, không chỉ là
hai mươi triệu đồng bào Việt Nam để khẳng định quyền độc lập dân tộc, nhân
dân tiến bộ thế giới để tranh thủ sự ủng hộ mà còn hướng đến bọn đế quốc:
Anh, Pháp, Mỹ nhằm ngăn chặn mọi âm mưu xâm lược của chúng.
Tuyên ngôn độc lập là bản hùng ca của thời đại mới bởi nó đã kế thừa và phát
triển bài thơ
Như
thông thường, tác phẩm cũng gồm ba phần; phần mở đầu tác giả đã tạo được cơ sở pháp lý và chính nghĩa cho Tuyên ngôn độc lập. Nếu ở Nam
quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt vào đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh
thép: Nam quốc sơn hà Nam đế cư (sông núi nước Nam vua Nam ở);
trong Bình ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã khẳng định một chân lý
lịch sử: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo thì Tuyên
ngôn độc lập mở đầu
bằng cách trích dẫn hai câu nói nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn của thế
giới. Câu thứ nhất được trích từ Tuyên
ngôn độc lập của nước Mỹ
năm 1776: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Câu thứ hai được rút ra từ bản Tuyên
ngôn Nhân quyền và dân quyền Cách
mạng Pháp năm 1791: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đây là một dụng ý chiến lược và
chiến thuật của Bác. Người muốn dùng lời của ông cha người Pháp và người Mỹ
để đập vào lưng của con cháu họ, dùng cây gậy độc lập tự do đánh vào lưng
những kẻ thù của độc lập tự do. Nếu câu mở đầu của Nam
quốc sơn hà là lời khẳng
định chủ quyền dân tộc, mở đầu của Bình Ngô đại cáo là một triết lí nhân nghĩa gắn với
an dân thì mở đầu của Tuyên ngôn độc lập là một lời tranh luận ngầm nhằm lột
tẩy những mưu mô thủ đoạn của bọn thực dân. Cách trích dẫn ấy vừa tạo
được cơ sở vững chắc cho Tuyên
ngôn độc lập của Việt
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Như đẳng hành khan thủ bại hư.
Tạm dịch: Sông
núi nước
Rành rành định phận, ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Nguyễn Ái Quốc muốn đặt ba cuộc Cách mạng tư
sản ở Mỹ năm 1776, Cách mạng tư sản năm 1791 và Cách mạng tháng tám năm 1945
của dân tộc Việt Nam trong vị thế
ngang bằng nhau. Đây cũng chính là một nét kế thừa sáng tạo cách làm của
các vị tiền bối.
Trong phần mở đầu, ngoài việc trích dẫn lời lẽ
của hai bản Tuyên ngôn độc
lập trên, Bác còn thể hiện
một tư duy đầy biến hóa và sáng tạo qua luận điểm suy rộng ra: Tất cả các dân tộc đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Ở đây, Bác đã nâng từ quyền con người lên thành quyền dân tộc, từ vấn đề nhân
quyền, vấn đề quyền cá nhân lên thành quyền của mọi dân tộc bị áp bức trên
thế giới. Một nhà văn hóa nước ngoài đã viết: Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí
Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi
dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình.
Phần
giữa của Tuyên ngôn
độc lập, Hồ Chí Minh đã thiết lập cơ
sở thực tế cho văn bản bằng việc đưa dẫn chứng cụ thể để tố cáo tội ác giặc Pháp và nêu cao cuộc
đấu tranh chính nghĩa của dân tộc ta. Ở phần này, Hồ Chí Minh đã thể hiện
nét tương đồng với Cáo bình
Ngô của Nguyễn Trãi. Ức
Trai tiên sinh đã từng vạch tội giặc
Minh mượn gió bẻ măng,
lợi dung thời cơ phù Trần
diệt Hồ để thôn tính nước
ta: Nhân họ Hồ chính sự
phiền hà - Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa. Trong tác phẩm của mình, Bác đã dùng
lập luận bác bỏ để vạch trần năm tội
ác về chính trị, bốn tội ác về kinh tế của thực dân Pháp. Nếu nước mẹPháp đưa ra chiêu bài bảo hộ thì Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ: Trong năm năm, chúng bán nước ta
cho Nhật… Năm xưa, Nguyễn
Trãi đã khái quát lại tội ác tày trời
và chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Ngô qua hai câu thơ: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung
tàn- Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Ở Tuyên ngôn độc lập, với văn
phong đĩnh đạc, giàu tính luận chiến, Bác
đã viết: Chúng bóc lột
dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác,
tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Với cách lặp kết cấu cú pháp, điệp
ngữ “chúng”, kết cấu song hành, tăng tiến,Tuyên ngôn độc lập là bản tuyên cáo chi tiết những hành
động tham tàn bạo ngược của giặc Tây trên đất nước Việt Nam. Đặc biệt, ở Tuyên ngôn độc lập, với những
dẫn chứng, số liệu cụ thể, bằng ngòi bút giàu sức chiến đấu, Nguyễn Ái Quốc
còn vạch rõ thủ đoạn thâm độc của chính sách ngu dân, cai trị dân tộc Việt
Nam bằng rượu và thuốc phiện, lập
nhà tù nhiều hơn trường học. Nước Pháp ở thời điểm này đang rơi vào cuộc
khủng hoảng kinh tế; thay vì đổ xuống biển hàng tấn rượu thì bọn thực dân đã
mở rộng khai thác thuộc địa sang các nước Đông Dương và biến các nước này trở
thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa của chúng. Vì vậy chúng cấm người dân Việt
Ở truyện ngắn Vi hành, qua lời thư gửi
người em họ, tác giả đã trực tiếp lên án tội lỗi của vua Khải Định thừa lệnh
quan thầy Pháp đầu độc nhân dân ta bằng rượu và thuốc phiện đưa họ vào vòng
đói khổ: Tôi không được rõ ý
đồ nhà vi hành của chúng ta ra sao? Phải chăng là ngài muốn biết dân Pháp,
dưới quyền ngự trị của bạn ngài là A-lêch-xăng Đệ nhất có được sung sướng, có
được uống nhiều rượu và được hút nhiều thuốc phiện bằng dân
Như vậy ở phần hai, Bác đã xác lập một nền
tảng vững chắc cho Tuyên
ngôn độc lập của Việt
Về tổng thể, Tuyên
ngôn độc lập có điểm tương
đồng giữa các phần như Bình
Ngô đại cáo song bố cục
ngắn gọn và chặt chẽ hơn. Nếu hai tác phẩm trên sáng tác theo các thể thơ văn
cổ Trung đại thì Tuyên ngôn
độc lập viết theo phong
cách văn chính luận hiện đại với lập luận sắc sảo, bằng chứng rõ ràng, hình
ảnh gợi cảm, ngôn từ chính xác, kết hợp sâu sắc giữa văn học và chính trị, kế
thừa và phát triển. Tính đến hôm nay tác phẩm sắp bước vào tuổi thất thập cổ lai hy song nó vẫn còn giá trị bền vững với
chúng ta. Mọi vật đều sợ thời gian bởi thời gian sẽ phủ mờ lên tất cả, song
thời gian lại sợ các vĩ nhân bởi sự tồn tại của các vĩ nhân là trường cửu. Đó
là trường hợp của Bác và sự nghiệp văn chính luận của Người, trong đó có Tuyên ngôn độc lập. Tìm hiểu
tác phẩm của Bác ta hiểu hơn tầm văn hóa, chiến lược của một vị lãnh tụ trong
việc phát huy quan điểm dùng văn chương làm vũ khí phục vụ Cách mạng.
Mỗi lần nghe lại tiếng Bác đọc Tuyên ngôn độc lập, chúng ta
lại bồi hồi xúc động. Lời Bác như vẫn còn đâu đây nhắc nhở cháu con đất Việt
không ngừng phấn đấu bảo vệ chủ quyền dân tộc, xây dựng đất nước sánh vai cùng các cường quốc năm
châu.
N.T.T.T
|
Thứ Hai, 10 tháng 12, 2018
NÉT KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC QUA TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
PHÁT BIỂU 20.11 (TRÂN)
Kính thưa quý vị đại biểu! Kính thưa quý
thầy cô, cùng toàn thể các bạn học sinh thân mến!
Thế là ngày 20/11, ngày Tết của thầy-cô
giáo lại đến…Hòa trong không khí vui tươi, nhộn nhịp chào mừng kỉ niệm lần
thứ 36 ngày Nhà Giáo Việt Nam, em rất vinh dự được đứng ở đây, đại diện cho
toàn thể học sinh trường THPT Nguyễn Trãi phát biểu cảm nghĩ trong buổi lễ
trang trọng, thiêng liêng này.
Kính thưa quý vị đại biểu, quý thầy cô
cùng các bạn học sinh thân mến!
Là một học sinh đang độ tuổi cấp
sách đến trường, em không thể nào quên truyền thống “Tôn sư trọng đạo” của
dân tộc mà ông cha ta đã truyền dạy từ bao đời nay qua những câu ca dao quen
thuộc như: “Muốn sang thì bắc cầu Kiều
- Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy” hay câu
tục ngữ: “Không thầy đố mày làm nên”.
Thật vậy, thầy cô là những người lái đò
miệt mài đưa từng lớp học sinh chúng em đến bến bờ tri thức, dẫn bước chúng em
chạm đến tương lai tươi sáng. Thầy cô luôn hết mình trong từng bài giảng, luôn
tìm tòi và sáng tạo phương pháp giảng dạy dễ hiểu để truyền đạt hết kiến
thức đến với chúng em; luôn tận tình giúp đỡ, chỉ dẫn cho chúng em những
kiến thức khó. Không chỉ truyền kiến thức trên sách vở, thầy cô còn dạy cho
chúng em bao điều hay lẽ phải, dạy cho
chúng em những cách ứng xử khéo léo, lễ phép; dạy cho chúng em cách nhìn
nhận vấn đề- sự vật- con người không chỉ ở hiện tượng- ở bề ngoài,
mà nhìn ở bản chất bên trong, nhìn ở nhiều khía cạnh khác nhau nhằm giúp
chúng em có một nhân sinh quan đúng đắn. Từ đó, chúng em trưởng thành
hơn và hoàn thiện bản thân hơn.
Kính thưa Thầy cô, đã từ lâu chúng em
luôn thầm nghĩ thầy cô là tấm gương sáng về tri thức và nhân cách
sống để chúng em noi theo. Đã bao lần chúng em vì ham chơi mà quên đi trách
nhiệm của mình, bao lần chúng em có những suy nghĩ và hành động sai lệch khiến
cho thầy cô thất vọng và phải bận lòng. Thế nhưng thầy cô luôn bao dung, tha
thứ, giúp chúng em nhận ra và sửa chữa những sai phạm của bản thân.
Chúng em xin cảm ơn thầy cô về những gì
thầy cô đã dành cho chúng em và chúng em cũng xin cúi đầu gửi đến thầy cô lời
xin lỗi chân thành, sâu sắc nhất.
Ngày 20/11 năm nay là một ngày rất ý nghĩa
đối với chúng em – những học sinh cuối cấp, bởi chúng em sắp phải xa
trường, xa thầy cô. Em xin đại diện cho tất cả các bạn học sinh lớp 12,
cũng như toàn thể học sinh trường THPT Nguyễn Trãi, xin bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc của chúng em đối với thầy cô. Kính chúc quý thầy cô có một ngày lễ
thật vui vẻ và ý nghĩa, kính chúc quý thầy cô luôn dồi dào sức khỏe, vui vẻ,
hạnh phúc và thành công trong sự nghiệp trồng người. Chúng em xin hứa sẽ cố
gắng học tập, rèn luyện bản thân thật tốt, trở thành người công dân tốt, có ích
cho xã hội để không phụ công ơn to lớn của thầy cô.
Em xin chân thành cám ơn!
SÓNG - LIÊN HỆ VỘI VÀNG (2)
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
Làm
sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
(Sóng – Xuân Quỳnh)
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
(Sóng – Xuân Quỳnh)
Liên hệ:
Tôi
muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
(Vội vàng – Xuân Diệu)
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
(Vội vàng – Xuân Diệu)
Từ đó nhận xét khát vọng của hai nhà thơ.
Bài làm
Xuân Quỳnh là một trong số những
nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến
chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn,
vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng
hạnh phúc bình dị đời thường. “Sóng” là bài thơ tình yêu đặc sắc của Xuân
Quỳnh, được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế đến vùng biển
Diêm Điền (Thái Bình). Hai khổ thơ cuối trong bài ”Sóng” thể hiện khát vọng
tình yêu, khát vọng sống của thi sĩ.:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Đoạn thơ của
XQ gợi người đọc nhớ đến đoạn thơ của “ông hoàng của thi ca tình yêu” XD trong bài thơ ”Vội vàng”:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Những
khổ thơ trên, XQ đã ca ngợi vẻ đẹp của tình yêu: dù có gặp nhiều
thử thách nhưng sóng cũng như em đã chinh phục ”muôn vời cách trở” để
đến với bờ, đến với anh. Khi chạm đến bến bờ hạnh phúc, Xuân Quỳnh
lại âu lo, trăn trở về sự hữu hạn của cuộc đời, của tình yêu trong
sự vô hạn của thời gian. Đến khổ thơ cuối, nữ sĩ có một khát vọng
mãnh liệt – khát vọng được bất tử hoá
tình yêu:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Mở đầu bài thơ là con sóng bỏ bờ để “tìm ra tận bể” và khổ thơ cuối cùng này
như tâm nguyện đã hoàn thành của sóng. Còn em thì sao?
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Hai chữ “làm sao” như tả hết được những
trăn trở, băn khoăn, niềm mong mỏi, khát khao mãnh liệt của người phụ nữ. Khát
vọng được hóa thành trăm con sóng nhỏ, khát vọng được tan thành trăm con sóng
nhỏ là khát vọng được cho đi và dâng hiến bởi có một nghịch lí trong tình yêu
là “Hạnh phúc thật sự chỉ đến khi bạn dám mạnh dạn cho đi chứ không phải nắm
giữ thật chặt” (Christopher Hoare). Hai chữ “tan ra” gợi ra nhiều cách hiểu.
“Tan ra” không phải là mất đi mà “tan ra” là hi sinh, là dâng hiến, là khao
khát được hoá thân cái tôi cá thể vào “trăm con sóng nhỏ” để hoà mình vào “biển
lớn tình yêu” bất tử hoá tình yêu; cũng là một cách để vượt qua giới hạn mong
manh của cõi người. “Tan ra” còn là để vượt qua mọi giới hạn không gian, thời
gian để trường tồn cùng tình yêu. Trong phút giây giao hoà của cảm xúc thì “tan
ra” là biểu hiện của sự hoà nhập trọn vẹn, thăng hoa. Yêu và mong ước được hiến
dâng và hi sinh cũng chính là khao khát được sống hết mình vì tình yêu. Có như
thế tình yêu mới có thể tồn tại vĩnh hằng cùng với thời gian; có như thế tình
yêu mới chiến thắng được cái hữu hạn, mong manh của đời người.
Hai câu thơ cuối khép lại đoạn thơ như lời kết cho một
quan niệm tình yêu hoàn mỹ:
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Xuân
Quỳnh đã đặt “biển lớn”- không gian vô tận bên cạnh “ngàn năm”- thời gian vô
cùng. Ý thơ vì thế trở nên mênh mông như tình yêu nối dài vô tận. Đúng là khi
hoà vào biển lớn tình yêu của nhân loại thì tình yêu của những cá thể sẽ không
còn cô đơn, không còn mong manh nữa. Sự trường tồn bất tử với thời gian, không
gian làm nỗi day dứt hữu hạn và những mong manh của cõi người như cũng tan
biến. Ở đó chỉ còn thấy sóng vỗ bờ và “còn vỗ” là còn yêu, còn vỗ bờ là
còn tồn tại. Như em còn sống thì sẽ còn yêu anh và sẽ còn yêu anh “cả khi chết
đi rồi” (Xuân Quỳnh).
Đặt
hoàn cảnh năm 1967 khi bài thơ ra đời, khi cả nước ào ào xông trận vì miền Nam
ruột thịt thì những tình yêu lứa đôi kia cũng phải gác lại cho tình yêu lớn lao
hơn – tình yêu Tổ Quốc. Suy cho cùng, đó cũng là dâng hiến và hi sinh, hi sinh
tình yêu cá nhân mình để tình yêu cá nhân hoà vào biển lớn tình yêu của đất
nước, của trách nhiệm cao cả. Sự hiến dâng ấy cũng như tâm nguyện góp những
“mùa xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân lớn của dân tộc; sự hoá thân thành trăm
con sóng nhỏ cũng là hoá thân cho đất nước khi “Tổ Quốc gọi tên mình”.
Đoạn thơ sử dụng thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu diễn
tả đúng những cung bậc cảm xúc của tình yêu. Đoạn thơ còn sử dụng các
phép tu từ nhân hoá, ẩn dụ…rất thành công. Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế; giọng
thơ mềm mại, nữ tính…dễ đi vào lòng người.
Chẳng những yêu hết mình, yêu chân thành mà tuổi trẻ còn có một niềm ham
sống mãnh liệt. Không ai khác ngoài Xuân Diệu có thể bộc lộ cái tôi sổi nổi,
giàu khát vọng ấy của đời thanh niên:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Nhân vật trữ tình trong “Vội vàng” có một khao khát được “tắt nắng” cho màu hoa đừng phai, được “buộc gió” cho “hương đừng bay đi”. Nắng và gió, hương và hoa ở đây là mùa xuân của đất trời. Đó là “đồng nội xa rì”, là “lá cành tơ phơ phất” và còn là “của yến anh này đây khúc tình si”. Nhưng ẩn sâu trong vẻ đẹp diệu kì ấy của mùa xuân là vòng quay không ngừng của thời gian. Thời gian có sức mạnh ghê gớm, nó bào mòn mọi thứ, kể cả tuổi thanh xuân của con người. Vì vậy mà Xuân Diệu luôn lo sợ về tình yêu, về tuổi già trước mắt: Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua- Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.
Nỗi sợ vô hình ấy cứ ảm ảnh nhà thơ
mãi không thôi. Chính vì lẽ đó mà Xuân Diệu đã khát vọng chiếm đoạt quyền năng
của tạo hóa, buộc vũ trụ ngừng quay, thời gian dừng lại. Từ đó, thi nhân được
hưởng trọn vẹn những phút giây đẹp nhất của đời người. Khát khao ấy nghe có vẻ
ngông cuồng, điên rồ những lại rất hợp lí. Có người từng bảo rằng: “Tuổi trẻ
như một cơn mưa rào, cho dù bị cảm, vẫn muốn quay lại để được ướt thêm một lần
nữa”. Tuổi thanh xuân, là quãng thời gian mà con người cảm thấy mình đẹp nhất,
sung sức nhất. Nhà thơ muốn được níu giữ, được tận hưởng thời trẻ, điều đó cũng
không quá khó hiểu. Đây chính là khát vọng đầy chất nhân văn của tác giả. Xuân
Diệu, qua đó, cũng nhắc nhở người đọc: “Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm”.
Nghĩa là ta phải nhanh lên để tình non chẳng chóng già, để một mai ngẫm lại ta
không hối tiếc vì đã “chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Tác giả sử dụng thể thơ ngũ ngôn giàu
nhịp điệu, lột tả chân thực khát vọng mãnh liệt của bản thân cũng như làm tăng
sức truyền cảm đối với độc giả. Các động từ mạnh “tắt”, “buộc”,… cùng với điệp
ngữ “Tôi muốn” góp phần nhấn mạnh nội dung của thi phẩm, đồng thời tạo nên cái
hay cho đoạn thơ, mang đậm phong cách thơ Xuân Diệu.
Hai đoạn thơ trên của Xuân Quỳnh và Xuân Diệu đều sử dụng thể thơ ngũ ngôn, giàu
nhịp điệu nhằm tăng tính biểu cảm khi truyền tải ý nghĩa nhân văn đến người
đọc. Ngoài ra, hai khổ thơ trên đều bộc
lộ cái tôi khát vọng với đời vô cùng cháy bỏng của thế hệ trẻ thời hiện
đại. Tuy nhiên, khát vọng trong “Sóng” là khát vọng tình yêu lứa đôi, là khao
khát được tận hiến, được hi sinh cho một tình yêu đẹp, giữa “biển lớn ngàn năm
sóng vỗ”. Còn trong “Vội vàng”, ấy lại là một quan niệm nhân sinh về lẽ sống:
sống vội vàng , giục giã để tận hưởng những giá trị của cuộc sống.
Người ta nói: “Tuổi trẻ là tuổi không ngại ngùng gì và không nghi ngờ gì”. Tuổi thanh xuân của đời người trôi qua nhanh lắm. Vậy nên, đừng ngại ngùng, hãy yêu hết mình, sống vội vàng với cả nhiệt huyết của người trẻ như Xuân Diệu và Xuân Quỳnh. Chỉ có thế, ta mới vươn tới được hạnh phúc vĩnh hằng và hưởng thụ lấy những tinh hoa, những khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời này.
Người ta nói: “Tuổi trẻ là tuổi không ngại ngùng gì và không nghi ngờ gì”. Tuổi thanh xuân của đời người trôi qua nhanh lắm. Vậy nên, đừng ngại ngùng, hãy yêu hết mình, sống vội vàng với cả nhiệt huyết của người trẻ như Xuân Diệu và Xuân Quỳnh. Chỉ có thế, ta mới vươn tới được hạnh phúc vĩnh hằng và hưởng thụ lấy những tinh hoa, những khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời này.
Tình yêu là tiếng gọi của con tim và
lý trí. Nếu Xuân Quỳnh lại dịu dàng mà mãnh liệt qua khao khát được tan ra,
được hiến dâng cho cuộc đời thì “Vội vàng” khát khao làm chủ tạo hóa để
được mãi ngất ngây tận hưởng hương sắc của đời, hương sắc của tình yêu. Dù
mang hai quan niệm khác nhau trong tình yêu nhưng cả hai đoạn thơ và tư tưởng
của những thiên tài thi ca Xuân Quỳnh – Xuân Diệu vẫn cất lên những giá trị
nhân bản, nhân văn: yêu là sống hết mình cho tình yêu.
_______________
SÓNG - LIÊN HỆ VỘI VÀNG
Cảm nhận:
“Cuộc đời tuy dài thế
…Để ngàn năm còn vỗ”
(Sóng – Xuân
Quỳnh)
Liên hệ với:
“Ta muốn ôm
…cắn vào ngươi”
(Vội vàng – Xuân
Diệu)
Từ đó nhận xét
về khát vọng tình yêu, khát vọng sống của 2 thi sĩ.
Xuân Quỳnh là một trong số những
nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến
chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn,
vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng
hạnh phúc bình dị đời thường. “Sóng” là bài thơ tình yêu đặc sắc của Xuân
Quỳnh, được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế đến vùng biển
Diêm Điền (Thái Bình). Hai khổ thơ cuối trong bài ”Sóng” thể hiện khát vọng
tình yêu, khát vọng sống của thi sĩ.:
“Cuộc đời tuy dài thế
…Để ngàn năm còn vỗ”
Đoạn thơ của
XQ gợi người đọc nhớ đến đoạn thơ của “ông hoàng của thi ca tình yêu” XD trong bài thơ ”Vội vàng”:
“Ta muốn ôm
…cắn vào ngươi”
Mới ở
khổ thơ trước, chị viết với tất cả niềm tin yêu vô bến bờ với những cảm xúc
tình yêu nồng nàn trong sự dào dạt của sóng xô bờ và nỗi nhớ người mình yêu
tràn ngập khắp không gian và thời gian: đêm – ngày, dưới lòng sâu – trên mặt
nước, trong mơ còn thức…thì ở đoạn thơ này thi sĩ lại đầy ắp những âu lo, dự
cảm.
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Thế giới của thời gian và không gian được Xuân Quỳnh
đặt cạnh nhau trong sự tương phản và đối lập giữa cái hữu hạn (kiếp người) và
cái vô hạn (thời gian và biển lớn). “Cuộc đời” và “năm tháng”, “biển rộng” và
“mây trời” và kiểu câu điều kiện “tuy-vẫn; dẫu-vẫn” kết hợp các tính từ “dài-rộng-xa”
tạo nên nỗi day dứt ám ảnh. Đặt cái hữu hạn vào cái vô hạn tận của thời gian,
nữ sĩ như thấy mình nhỏ bé, mong manh. Cuộc đời thì dài nhưng năm tháng vẫn cứ
thế đi qua; biển dẫu rộng nhưng không níu nổi một đám mây bay về vuối chân
trời; thời gian vô thuỷ vô chung mà quỹ thời gian tuổi xuân của mỗi con người
lại hữu hạn. Cuộc đời tưởng là dài, nhưng trong dòng thời gian chảy trôi bất
tận, giữa trời biển bao la, con người có thể chỉ là một thoáng phù
vân. Với người phụ nữ, điều ám ảnh nhất vẫn là sợ sự tàn phai, tàn
phai năm tháng, tàn phai của tuổi trẻ, của nhan sắc và theo đó là sự tàn phai
của tình yêu.
Thế mới biết, hạnh phúc của người phụ nữ phụ thuộc rất
nhiều vào hai yếu tố: nhan sắc và tình yêu. Điều đó chứng tỏ, tình yêu có sức
mạnh vô biên nhưng cũng đầy mong manh bởi “lời yêu mỏng mảnh như làn
khói – ai biết lòng anh có đổi thay”. Và cả chính hình ảnh “mây vẫn
bay về xa” kia trong câu thơ cuối cũng đầy những ám ảnh. Phải chăng vì biết
trước không có gì vĩnh viễn – “hôm nay yêu mai chắc phải xa rồi” nên anh cũng
như đám mây trời phiêu du kia bay về bến bờ khác, dù vòng tay em có rộng như
biển, có dài như sông cũng không thể nào níu giữ được anh trong vòng tay. Chính
sự nhạy cảm và day dứt của cái tôi Xuân Quỳnh trước thời gian và kiếp người;
giữa đổ vỡ và tin yêu đã làm cho hồn thơ này trở nên tha thiết mãnh liệt hơn
giữa cuộc đời.
Và với Xuân Quỳnh, những âu
lo, dự cảm đã mang đến một khát vọng mãnh liệt – khát vọng được bất tử hoá tình
yêu:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Mở đầu bài thơ là con sóng bỏ bờ để “tìm ra tận bể” và khổ thơ cuối cùng này
như tâm nguyện đã hoàn thành của sóng. Còn em thì sao?
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Hai chữ “làm sao” như tả hết được những trăn trở, băn khoăn, niềm mong mỏi,
khát khao mãnh liệt của người phụ nữ. Khát vọng được hóa thành trăm con sóng
nhỏ, khát vọng được tan thành trăm con sóng nhỏ là khát vọng được cho đi và
dâng hiến bởi có một nghịch lí trong tình yêu là “Hạnh phúc thật sự chỉ đến khi
bạn dám mạnh dạn cho đi chứ không phải nắm giữ thật chặt” (Christopher Hoare).
Hai chữ “tan ra” gợi ra nhiều cách hiểu. “Tan ra” không phải là mất đi, không
phải là để tan loãng vào cõi hư vô mà “tan ra” là hi sinh, là dâng hiến, là
khao khát được hoá thân cái tôi cá thể vào “trăm con sóng nhỏ” để hoà mình vào
“biển lớn tình yêu” để vĩnh hằng hoá, bất tử hoá tình yêu; cũng là một cách để
vượt qua giới hạn mong manh của cõi người.
“Tan ra” còn là
để vượt qua mọi giới hạn không gian, thời gian để trường tồn cùng tình yêu.
Trong phút giây giao hoà của cảm xúc thì “tan ra” hay “tan vào nhau” đều là
biểu hiện của sự hoà nhập trọn vẹn, thăng hoa. Tình yêu của lứa đôi phải chăng
hạnh phúc nhất vẫn là lúc được trọn vẹn cùng những khao khát: “em yêu
anh cuồng điên – yêu đến tan cả em” (Dệt tầm gai- Vi Thuỳ Linh); yêu đến
nỗi mà “từng nguyên tử của em cũng thuộc về anh” (Uýt man). Yêu và
mong ước được hiến dâng và hi sinh cũng chính là khao khát được sống hết mình
vì tình yêu. Có như thế tình yêu mới có thể tồn tại vĩnh hằng cùng với thời
gian; có như thế tình yêu mới chiến thắng được cái hữu hạn, mong manh của đời
người.
Hai câu thơ cuối khép lại đoạn thơ như lời kết cho một
quan niệm tình yêu hoàn mỹ:
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Ở đây, Xuân Quỳnh đã đặt “biển lớn” – không gian vô tận bên cạnh “ngàn năm”
thời gian vô cùng. Ý thơ vì thế trở nên mênh mông như tình yêu nối dài vô tận.
Đúng là khi hoà vào biển lớn tình yêu của nhân loại thì tình yêu của những cá
thể sẽ không còn cô đơn, không còn mong manh nữa. Sự trường tồn bất tử với thời
gian, không gian làm nỗi day dứt hữu hạn và những mong manh của cõi người như
cũng tan biến. Ở đó chỉ còn thấy sóng vỗ bờ và “còn vỗ” là còn yêu, còn
vỗ bờ là còn tồn tại. Như em còn sống thì sẽ còn yêu anh và sẽ còn yêu anh “cả
khi chết đi rồi” (Xuân Quỳnh).
Bàn về sự dâng hiến và hi sinh trong tình yêu, có lẽ chúng ta cũng nên rộng mở
“chân trời nghệ thuật” của bài thơ. Đặt hoàn cảnh năm 1967 khi bài thơ ra đời, khi
sân ga, giếng nước, con tàu diễn ra những “cuộc chia ly màu đỏ” – khi cả nước
ào ào xông trận vì miền Nam ruột thịt thì những tình yêu lứa đôi kia cũng phải
gác lại cho tình yêu lớn lao hơn – tình yêu Tổ Quốc. Bởi vậy những chàng trai
cô gái “xa nhau không hề rơi nước mắt – nước mắt dành cho ngày gặp lại”. Bởi
“khi tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”. Suy cho cùng, đó cũng là dâng hiến và
hi sinh, hi sinh tình yêu cá nhân mình để tình yêu cá nhân hoà vào biển lớn
tình yêu của đất nước, của trách nhiệm cao cả. Sự hiến dâng ấy cũng như tâm
nguyện góp những “mùa xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân lớn của dân tộc; sự hoá
thân thành trăm con sóng nhỏ cũng là hoá thân cho đất nước khi “Tổ Quốc gọi tên
mình”.
Đoạn thơ sử dụng thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu
diễn tả đúng những cung bậc cảm xúc của tình yêu. Đoạn thơ còn sử
dụng các phép tu từ nhân hoá, ẩn dụ…rất thành công. Ngôn ngữ thơ chọn lọc,
tinh tế; giọng thơ mềm mại, nữ tính…dễ đi vào lòng người.
Nếu đoạn thơ trong Sóng của Xuân Quỳnh là vẻ đẹp của
cái tôi muốn vượt qua sự hữu hạn của đời người để hoá thân vào biển lớn tình
yêu; thì đoạn thơ trong bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu lại bộc
lộ một cái tôi sôi nổi, vồ vập và khát vọng chiếm lĩnh.
Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong
các nhà Thơ Mới” (Hoài Thanh). Ông mang đến cho thơ ca đương thời một sức sống
mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những
cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và
tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết. “Vội vàng” là một
trong những bài thơ hay nhất của Xuân Diệu trước cách mạng.
Ở phần đầu của bài thơ, thi sĩ luận giải cho người đọc
thấy được tạo hoá có sinh ra con người không thể mãi mãi hưởng lạc thú ở chốn
trần gian. Đời người ngắn ngủi, tuổi xuân có hạn và thời gian trôi đi vĩnh viễn
không trở lại. Vì vậy thi nhân “giục giã” chúng ta phải “nhanh lên”, “vội vàng
lên” để tận hưởng bữa tiệc của trần gian khi mà “mùa chưa ngả chiều hôm”, khi
mà xuân đang non, cành còn tơ, đồng nội xanh rì, tháng giêng ngon…Có lẽ chính
vì vậy mà thi nhân đã khép lại bài thơ bằng một đoạn thơ mang sắc màu ái
ân mãnh liệt.
Ba chữ “Ta muốn ôm” đứng
biệt lập ở giữa đoạn thơ, gợi tư thế chủ động, tâm thế sẵn sàng của một chủ thể
đang đứng giữa đất trời, dang rộng vòng tay đón trọn hương đời.
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Điệp ngữ “ta muốn” như nhịp điệu hối hả, như hơi thở
gấp gáp của thi nhân. Chứng tỏ Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít, cuống quýt,
như muốn cùng lúc giang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng
mình. Thi nhân như muốn ôm hết vào lòng mình “mây đưa và gió lượn”, muốn đắm
say với “cánh bướm tình yêu”, muốn gom hết vào lồng ngực trẻ trung ấy “một cái
hôn nhiều”. Muốn thu hết vào hồn nhựa sống dạt dào “Và non nước, và cây, và cỏ
rạng”. Để rồi, chàng như con ong bay đi hút nhụy đời cho đến say “chếnh choáng”
hút cho đã cho đầy ánh sáng, “Cho no nê thanh sắc của thời tươi” mới lảo
đảo bay đi. Điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến nhấn mạnh các cấp
độ khát vọng hưởng thụ đạt đến độ thoả thuê, sung mãn, trọn vẹn. Xuân Diệu muốn
tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chếnh choáng”, “đã đầy”. Trong niềm cảm
hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân như một cái gì quý
nhất, trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, xuân
hồng, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khao khát cao độ.
Thơ Xuân Diệu có đặc trưng là sự vồ vập, cuồng nhiệt,
mạnh bạo. Mỗi một lần khao khát “Ta muốn” thì lại đi liền với một động từ chỉ
trạng thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, nồng nàn hơn “ôm-sự sống”, “riết-mây
đưa, gió lượn”, “say-cánh bướm, tình yêu”, “thâu-cái hôn nhiều”, để cuối cùng
là một tiếng kêu của sự cuồng nhiệt, đắm say thể hiện niềm yêu đời, khát sống
chưa từng có trong thơ ca Việt Nam “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”. Đây
chính là đỉnh điểm của sự khao khát cháy bỏng của nhà thơ.
Dưới ngòi bút của Xuân Diệu và trong ánh mắt “xanh
non”, “biếc rờn” của thi sĩ, mùa xuân hiện lên rõ rệt và sống động như có hình
có dáng, có hồn có sắc “Xuân hồng”. Mùa xuân như môi, như má của một người
thiếu nữ trẻ trung, tràn trề nhựa sống và đẹp xinh, trinh nguyên đang rạo rực
yêu đương, hay như một quả chín ngọt thơm trong vườn “Tháng giêng ngon như một
cặp môi gần”. Đứng trước cái hấp dẫn của mùa xuân, cuộc sống, thi sĩ hình
như không nén nổi lòng yêu đã đi đến một cử chỉ cũng thật đáng yêu:
Ta muốn cắn vào ngươi !
Có lẽ trong các bài thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng
thì đây là những vần thơ Xuân Diệu nhất. Vì mỗi câu, mỗi chữ đều mang hơi thở
nồng nàn, đắm say, ham sống của “một nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.
Thành công của đoạn thơ chính là nhờ vào một số yếu tố
nghệ thuật điệp ngữ “Ta muốn” được lặp đi lặp lại nhiều lần ; sử dụng
động từ mạnh : thâu, riết, say, hôn, cắn; giọng điệu say mê; nhịp điệu gấp
gáp; chuyển đổi thể thơ linh hoạt; từ ngữ táo bạo thể hiện cái tôi tràn đầy cảm
xúc của tác giả.
Hai đoạn thơ đều thể hiện cái tôi giàu cảm
xúc, giàu khát vọng mãnh liệt về tình yêu; đều thể hiện được khát vọng
mãnh liệt, cháy bỏng về tình yêu với cuộc đời. Khát vọng trong
“Sóng” là khát vọng của tình yêu lứa đôi, là khao khát dâng hiến đến tận cùng,
khát vọng thăng thiên, bất tử hoá tình yêu. Còn trong “Vội Vàng” – Xuân Diệu
thể hiện một quan niệm sống: sống vội vàng, sống giục giã, cuống quýt, phải tận
hưởng vì thời gian đi qua tuổi trẻ sẽ không còn. Vì lẽ cuộc đời trôi đi không
đứng đợi nên con người cần sống tận hưởng và tận hiến trong từng giây phút cuộc
đời, và đừng lãng phí những tháng năm của đời người, nhất là những tháng năm
của tuổi trẻ. Bởi “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt – Còn hơn buồn
le lói suốt trăm năm”.
Tình yêu là tiếng gọi của con tim và lý trí. Nếu Xuân
Quỳnh lại dịu dàng mà mãnh liệt qua khao khát được tan ra, được hiến dâng cho
cuộc đời thì “Vội vàng” giục giã thi nhân Xuân Diệu sống vồ vập, đắm say với
cuộc đời bởi “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”; sống để tận hưởng hương sắc
ngất ngây của đời. Dù mang hai quan niệm khác nhau trong tình yêu nhưng cả hai
đoạn thơ và tư tưởng của những thiên tài thi ca Xuân Quỳnh – Xuân Diệu vẫn cất
lên những giá trị nhân bản, nhân văn: yêu là sống hết mình cho tình yêu.
VIỆT BẮC - LIÊN HỆ TỪ ẤY
TH là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam
với phong cách thơ trữ tính chính trị, mang khuynh hướng sử thi và
cảm hứng lãng mạn đậm đà. Những chặng đường thơ Tố Hữu gắn liền
với các chặng đường cách mạng của dân tộc. “Từ ấy” và “Việt Bắc”
là hai bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu. Bài thơ “VB” được tác
giả viết năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ và hiệp định
Giơ-ne-vơ được ký kết, cán bộ kháng chiến rời chiến khu VB về thủ đô
Hà Nội. Bài thơ “Từ ấy” được viết năm 1938, ghi lại sự kiện quan
trọng trong cuộc đời Tố Hữu khi TH được kết nạp vào ĐCS. Hai đoạn thơ
sau đây thể hiện sự vận động và phát triển cái tôi trữ tình TH:
”Những
đường Việt Bắc của ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất
rung.
Quân đi điệp điệp trùng trùng,
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ
nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn,
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa
bay.”
(Việt
Bắc)
”Tôi
buộc lòng tôi với mọi người
.....
Gần gũi nhau thêm mạnh khối
đời”
(Từ
ấy)
Bài thơ ”VB” được
kết cấu theo lối đối đáp giao duyên, có lời của người đi – cán bộ
kháng chiến và lời của người ở lại – đồng bào VB. Trong lời hồi
tưởng của người về xuôi có đoạn thơ thể hiện nỗi nhớ về khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong
kháng chiến :
”Những
đường Việt Bắc của ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất rung”
Tác giả dùng các từ chỉ số nhiều về không gian ”những đường”, về thời
gian ”đêm đêm”, về chủ thể sở hữu ”của ta” kết hợp với biện
pháp so sánh ”như là đất rung”, cách điệp phụ âm ”r” đã tái dựng lại một không khí
kháng chiến đông vui, nhộn nhịp, mạnh mẽ của một lực lượng, một tập thể lớn,
khiến cho đất trời rung chuyển. Cái tôi trữ tình Tố Hữu đã hòa vào
trong cái ta chung, hội tụ sức mạnh lớn lao của dân tộc.
Mở đầu là hình ảnh hào hùng
của đoàn quân được thể hiện trong hai câu thơ:
Quân đi
điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu
súng bạn cùng mũ nan
Hai
từ láy “điệp điệp" và “trùng trùng" đi liền nhau ở câu thơ có sức gợi
tả đó, nó vừa gợi lên hình ảnh của một đoàn quân đông đúc, vừa gợi lên sức
mạnh, khí thế hào hùng của một đoàn quân. Đoàn quân ra mặt trận hùng tráng,
mang cả sức mạnh của lòng yêu nước, của lí tưởng cách mạng, khát khao chiến đấu
và chiến thắng quân thù.
Câu thơ thứ hai đưực ngắt theo
nhịp 4/4: "Ánh sao đầu súng / bạn cùng mũ nan" càng làm tăng thêm vẻ
đẹp của người lính - một vẻ đẹp vừa mang tính lãng mạn vừa mang tính hiện thực
sâu sắc. Hình ảnh “Ánh sao đầu súng" có thể là hình ảnh ánh sao trời treo
trên đầu súng của những người lính trong mỗi đêm hành quân như "Đầu súng
trăng treo” trong bài thơ ”Đồng chí” của Chính Hữu; “ánh sao đầu súng" ấy
cũng có thể là ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người lính, ánh
sáng của lí tưởng cách mạng soi cho người lính bước đi.
Góp
phần vào sự hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta có cả một
tập thể quần chúng nhân dân tham gia kháng chiến. Họ là những “dân công đỏ đuốc
từng đoàn" tải lương thực, súng đạn để phục vụ cho chiến trường. Hình ảnh
của họ cũng thật đẹp, thật hào hùng và đầy lạc quan không kém những người lính:
Dân công đỏ
đuốc từng đoàn
Bước chân
nát đá, muôn tàn lửa bay
Bằng
một cách nói cường điệu “bước chân nát đá ”, nhà thơ đã làm nổi bật sức mạnh
yêu nước, yêu lí tưởng cách mạng, ý chí quyết tâm đánh thắng quân thù của người
nông dân lao động. Người nông dân lao động (lực lượng nòng cốt của cách mạng)
là lực lượng góp phần rất lớn để đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi
hoàn toàn sau này - Họ là những người nông dân đôn hậu, chất phác, lớn lên từ
bờ tre, gốc lúa nhưng họ đi vào cuộc kháng chiến với tất cả những tình cảm và
hành động cao đẹp, họ bất chấp những hi sinh, gian khổ, chấp mưa bom bão đạn
của quân thù, đạp bằng mọi trở lực để đi theo tiếng gọi của lòng yêu nước và lí
tưởng cách mạng. Hai hình ảnh "bước chân nát đá" và “muôn tàn lửa
bay" đã thể hiện cái khí thế hào hùng đó của nhân dân.
Âm điệu của đoạn thơ mạnh mẽ,
dồn dập, sôi nổi, hào hùng ; hình ảnh thơ hoành tráng, mang đậm chất sử thi
và cảm hứng lãng mạn bay bỗng góp phần thể hiện khí thế hào hùng của nhân dân ta.
Thơ lục bát đậm đà bản sắc dân tộc ; sử dụng thành công từ láy, điệp
từ ; ngôn từ mộc mạc, giàu sức gợi,…
Cái
tôi TH trong đoạn thơ trên là cái tôi nhân danh VB, cái tôi mang tầm vóc
sử thi và cảm hứng lãng mạn. Còn cái tôi trữ tình trong « Từ
ấy » thì như thế nào ?
”Tôi
buộc lòng tôi với mọi người
.....
Gần gũi nhau thêm mạnh khối
đời”
Từ khi được giác ngộ lý tưởng cách
mạng, với sự nhiệt huyết chân thành, người thanh niên tuổi trẻ Tố
Hữu đã bắt đầu có những nhận thức thay đổi trong lẽ sống cao đẹp,
trách nhiệm cuộc đời mình. Nhờ chân lý cách mạng soi sáng, nhà thơ
có những nhận thức mới trong gắn bó với mọi người. Động từ “buộc”
thể hiện sự ràng buộc của bản thân nhà thơ đối với môi trường rộng
lớn mọi giai cấp, bỏ đi cái tôi cá nhân để hòa vào cái ta rộng lớn.
Cụm từ “trang trải” và “trăm nơi” nói lên tình yêu thương giai cấp
tronng trái tim nhà thơ với mong muốn đồng cảm sâu sắc với người lao
động nghèo khó. Sự đồng cảm của nhà thơ với bao “hồn khổ” là tiếng
lòng thiết tha yêu thương, gần gũi với những người bị bóc lột trong
xã hội, đó là em nhỏ, những bà mẹ nghèo, những người không nhà
cửa…Câu thơ cuối là niềm ước ao, khát khao cháy bỏng của nhà thơ
không phân biệt giai cấp, gần gũi, bao bọc nhau để thêm “mạnh khối
đời”. Điều đó thể hiện mong ước đoàn kết mọi giai cấp để tạo nên
một khối thống nhất với sức mạnh cực kỳ to lớn. Điệp từ “để” được
điệp lại hai lần cùng nhịp thơ nhịp nhàng, giọng thơ hân hoan, háo
hức càng thể hiện được sự thay đổi mạnh mẽ, sôi nổi trong lý tưởng
sống của nhà thơ.
Như vậy, cái tôi TH là cái tôi tự
nguyện gắn bó với quần chúng lao khổ, là cái tôi khao khát được
cống hiến hết mình cho lý tưởng, thể hiện ý thức trách nhiệm của
người chiến sĩ; là cái tôi nhận thức sâu sắc về sức mạnh của khối
đoàn kết; là cái tôi đầy hào hức, trẻ trung, sôi nổi,...
Hai đoạn thơ trong ”Từ ấy” và
”VB” đã thể hiện sự vận động và phát triển của cái tôi TH. Từ bài
thơ Từ ấy đến bài thơ VB thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ của cái
tôi trữ tình song hành với bước chuyển của CM VN. Từ cái tôi của một
trí thức yêu nước say mê, hạnh phúc khi bắt gặp lý tưởng Đảng (Từ
ấy) phát triển thành cái ta nhân dnah CM và dân tộc lớn lao, cao đẹp
(VB); đó là sự chuyển biến từ nhận thức lý thuyết đến trải nghiệm
thực tế trong hành trình CM của người chiến sĩ.
Tóm lại, cùng với sự vận động của
đời sống dân tộc, thơ Tố Hữu ở từng giai đoạn cũng có những thay đổi. Từ cái
tôi cá nhân với nhiệt tình cống hiến cho lý tưởng cộng sản trước cách mạng
tháng Tám trong “Từ ấy”, đến cái tôi nhập vai quần chúng trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp ở “Việt Bắc”, đến cái tôi nhân danh cách mạng, nhân danh dân
tộc. Hai đoạn thơ nói riêng, hai bài thơ nói chung nồng nàn hơi thở của
thời đại và tiêu biểu cho phong cách thơ TH.
Thứ Ba, 21 tháng 8, 2018
PB NGÀY 20/11 (L.ANH)
Kính thưa quý vị đại biểu! Kính thưa quý thầy cô giáo!
Thưa toàn thể các bạn học sinh thân mến!
Hôm nay, hoà chung trong không khí rộn ràng, tươi vui đón chào ngày lễ trọng đại - ngày Nhà giáo Việt Nam lần thứ 35; em rất vinh dự được thay mặt các bạn học sinh trường THPT Nguyễn Trãi bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đến thầy cô - những người cha, người mẹ thứ hai trong cuộc đời chúng em.
Kính thưa quý thầy cô giáo!
Dân tộc ta có truyền thống “Tôn sư trọng đạo”. Trong dân gian, có nhiều câu nói ca ngợi vai trò to lớn của thầy cô như: “Muốn sang phải bắc cầu kiều - Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”; “Trọng thầy mới được làm thầy”; “Không thầy đố mày làm nên”,...
Sinh thời, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã nói: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý; nghề sáng tạo nhất trong những nghề sáng tạo. Các thầy giáo, cô giáo không những dạy chữ mà còn dạy người . Họ như cây thông trên sườn núi, cây quế giữa rừng sâu thầm lặng tỏa hương, dâng hiến trí tuệ, sức lực cho đời”.
Đúng vậy! Thầy cô là những người ươm mầm tri thức, nâng cánh ước mơ cho chúng em bay vào tương lai. Thầy cô như những người chèo đò miệt mài, không ngại sóng gió, cầm lái con thuyền tri thức, đưa chúng em cập bến bờ tương lai; để từ đó chúng em được bay cao bay xa hơn nữa.
Kính thưa, quý thầy cô!
“Công cha – nghĩa mẹ – ơn thầy”. Cái đạo lý giản dị nhưng vô cùng sâu xa ấy, đi theo suốt cả cuộc đời mỗi chúng em. Cha mẹ là người cho chúng em vóc dáng hình hài này. Nhưng thầy cô là người cho chúng em tri thức làm hành trang bước vào đời. Thầy cô đã dạy cho chúng em biết suy nghĩ và hành động đúng đắn; biết khóc, biết cười trước những mảnh đời; biết đứng lên sau mỗi lần vấp ngã; biết yêu thương gia đình và quê hương...v.v…
Không có chữ nghĩa nào ghi hết công lao của thầy cô dành cho chúng em. Chúng em xin cúi đầu ghi tạc công ơn Thầy Cô.
Các bạn học sinh thân mến!
Hãy thử một lần, các bạn hãy lặng mình đi, hãy nghĩ đến những gì thầy cô đã làm cho chúng ta thì chắc chắn các bạn sẽ trưởng thành hơn. Trong giờ phút này, các bạn hãy nhóm lên ngọn lửa yêu thương trong tim mình, hãy nói ra lời “Cảm ơn” vì sự hi sinh thầm lặng của thầy cô dù có muộn màng, hãy nói lời “Xin lỗi” vì đã làm thầy cô buồn, hãy hứa là sẽ cố gắng học tốt hơn …Đó chính là món quà vô giá mà thầy cô mong đợi.
Trong giây phút này đây, tôi tin chắc rằng trái tim chúng ta đã cùng chung một nhịp đập. Chúng ta hãy dâng lên thầy cô những đoá hoa tươi thắm, những lời hứa chân thành nhất!
Kính thưa, quý thầy cô!
Rồi thời gian sẽ cuốn trôi đi tất cả, năm tháng sẽ làm nhạt nhòa tất cả, nhưng có điều chắc chắn là tất cả chúng em sẽ không bao giờ quên những ngày tháng được học ở mái trường này, chúng em sẽ không bao giờ quên công ơn của thầy cô giáo Trường THPT Nguyễn Trãi. Chúng em xin hứa sẽ cố gắng học tập, rèn luyện đạo đức để trở thành những công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội.
Cuối cùng, em xin thay mặt các bạn gửi lời chúc tốt đẹp nhất đến thầy cô – những người đáng kính nhất. Xin kính chúc thầy cô sức khỏe dồi dào, luôn vui tươi trong cuộc sống, tràn đầy nhiệt huyết trên con đường dạy học.
Xin chân thành cám ơn BGH nhà trường cho chúng em có dịp để Tri ân thầy cô. Chúng em xin chân thành cám ơn!
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)