Thứ Năm, 31 tháng 1, 2019

Gía trị nhân đạo "Vợ chồng A phủ"

I. MỞ BÀI
- Tô Hoài là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau của đất nước. Các sáng tác của ông thiên về diễn tả sự thật đời thường với lối viết giản dị, gần gũi, thông tục.
- Truyện “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác năm 1952, là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc, in trong tập “Truyện Tây Bắc”, được giải Nhất giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955.
- Sau hơn nửa thế kỉ, đến nay truyện vẫn giữ nguyên vẹn sức hút với nhiều thế hệ người đọc. Có được thành công như vậy là vì truyện ngắn không chỉ mang giá trị hiện thực sâu sắc mà còn thể hiện rõ giá trị nhân đạo cao cả.
II. THÂN BÀI
1. Giải thích: Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của tác phẩm văn học chân chính. Nó được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau khổ của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ, đồng thời lên án những thế lực tàn bạo, đen tối chà đạp lên quyền sống, ước mơ hạnh phúc và phẩm giá của con người.
2. Phân tích:
- Biểu hiện thứ nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm "VCAP" trước hết được toát lên từ niềm cảm thông sâu sắc của Tô Hoài đối với những số phận bất hạnh, bị tước đoạt quyền sống, bị lăng nhục, đày đọa mà tiêu biểu là Mị và A Phủ.
+ Mị là cô gái trẻ đẹp, mơn mởn như bông hoa rừng nhưng bị bắt cóc về làm con dâu gạt nợ nhà thống lý. Dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thần quyền, lễ giáo, hủ tục phong kiến miền núi, Mị sống âm thầm vật vờ như chiếc bóng, cứ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Khi thì tưởng “mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”. Bởi Mị sống mà hầu như mọi quyền lợi bị tước đoạt. Mang tiếng là con dâu nhưng Mị lại là con dâu gạt nợ. Là con nợ hơn là con dâu. Là con nợ nên Mị thành nô lệ để “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay. Cuối mùa thì đi nương bẻ bắp…lúc nào cũng cài một bó đay ở trong tay để tước thành sợi. Suốt năm, suốt đời như thế”. Bị bóc lột sức lao động đã đành, Mị lại còn bị tước đoạt tuổi xuân, hạnh phúc, bị thần quyền áp chế. Nơi Mị sống chỉ độc “một ô cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay trông ra ngoài không biết sương hay là nắng”. Đó là chốn địa ngục trần gian mà tên chồng A Sử đã trói buộc Mị vào đó, vùi dập tuổi xuân của Mị ở đó.
+ A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh, gan bướng, sống cuộc sống hồn nhiên, phóng khoáng của tuổi trẻ yêu đời, lao động giỏi. A Phủ không nợ nần gì nhà thống lí mà rốt cục cũng biến thành kẻ trừ nợ suốt đời bị đánh đập, bị trói buộc một cách thảm khốc đến mức gần như tê liệt cả sức phản kháng. Cảnh xử kiện tàn bạo như thời trung cổ được Tô Hoài vẽ nên bằng một trang giấy mà ở đó sự tàn nhẫn, độc ác đã lên ngôi. A Phủ bị đánh đập gần như cả ngày: “đầu, đuôi mắt giập chảy máu” nhưng “chỉ quỳ và im như cái tượng đá”. Đến cả cái cảnh vì để hổ bắt mất một con bò, A Phủ phải bị trói đứng lên cái cột với dây mây quấn từ chân lên đến cổ. Phải chờ chết một cách vô lý trên cái cọc ấy giữa đêm đông rét mướt nếu không có bàn tay cứu giúp của Mị và tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn.
- Biểu hiện thứ hai của tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm này còn toát lên từ sự tố cáo gay gắt thế lực phong kiến miền núi tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của nhân dân lao động Tây Bắc.
+ Pá Tra- đại diện cho thế lực phong kiến miền núi - đã lợi dụng chính sách cho vay nặng lãi để nô lệ hóa con người mà Mị và A Phủ chính là nạn nhân của chúng. Mị và A Phủ từ là những đóa ban rừng mơn mởn, yêu tự do, giàu tài năng nhưng vì món nợ mà họ đã trở thành những kẻ nô lệ suốt đời bị đối xử như con vật. Nợ là sợi dây trói buộc thể xác của Mị và A Phủ vào nhà thống lý nhưng thần quyền mới là sợi dây trói oan nghiệt nhất đã trói buộc tinh thần Mị và A Phủ vào nhà thống lý. Họ đã bị thần quyền làm cho tê liệt về ý thức phản kháng, trở thành những con người cam chịu kiếp sống trâu ngựa.
+ Không chỉ vậy, nhà Pá Tra còn dùng cường quyền, hủ tục và những thủ đoạn bóc lột tàn nhẫn để thỏa mãn sự độc ác. Mị bị bóc lột lao động tàn tệ chỉ biết chúi đầu vào công việc cả đêm cả ngày “suốt năm, suốt đời như thế”. Bị A Sử trói đứng vào cột trong đêm tình mùa xuân chỉ vì Mị muốn đi chơi. A Phủ thì quanh năm chỉ rong ruổi ngoài bìa rừng chăn bò chăn ngựa đến nỗi quên cả việc về thăm làng cũ. Bị trói đứng vào cột chờ chết, thế mạng mình cho mạng của con bò. Qua những số phận ấy, ngòi bút Tô Hoài đã vạch trần bộ mặt tàn bạo của cha con nhà thống lý. Mang đến cho người đọc “tập hồ sơ tội ác” về tội ác tày trời của giai cấp chủ nô phong kiến miền núi ở Tây Bắc trước khi có cách mạng về.
- Biểu hiện thứ ba của giá trị nhân đạo trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" là việc nhà văn phát hiện và nâng niu trân trọng trước những vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất cao đẹp của nhân vật Mị và A Phủ và khả năng đến với cách mạng của họ.
+ Trước hết, nhà văn phát hiện và nâng niu trân trọng vẻ đẹp của nhân vật Mị. Mị là cô gái trẻ đẹp, giàu tài năng “Mị thổi sáo hay, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Có tấm lòng hiếu thảo với cha già. Khi bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lý, dù cuộc sống nhiều khổ cực, khổ như trâu ngựa nhưng trong Mị luôn ẩn chứa sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sức phản kháng mạnh mẽ. Tất cả đã được ngòi bút Tô Hoài trân trọng, nâng niu qua từng phát hiện.
Trong đêm tình mùa xuân, sức sống ấy như ngọn lửa bùng cháy dữ dội. Khi nghe tiếng sáo vọng lại “thiết tha bổi hổi”, Mị đã sống lại những phút giây tuổi trẻ ngày nào. Đó là lúc tài năng âm nhạc trong Mị được đánh thức “Mị ngồi nhẩm thầm lời người đang thổi sáo”. Hành động ấy nói lên bao điều. Bấy lâu nay, cô Mị câm lặng, vô cảm, ấy thế mà hôm nay bỗng được sống dậy. Bài hát cũ lâu rồi không hát, điệu sáo ấy lâu rồi không thổi nhưng Mị vẫn nhớ, Mị không quên nghĩa là sức sống trong Mị chưa nguội tắt mà vẫn âm ỉ như hòn than trong lớp tro tàn.
Cũng trong đêm tình ấy, ngòi bút Tô Hoài còn chứng kiến được hình ảnh một cô Mị nổi loạn cùng men rượu cay đêm tình. Rượu đã đưa Mị từ cõi quên về với cõi nhớ, rượu và tiếng sáo ngất ngây gọi bạn tình đã làm Mị nhận ra “Mị trẻ lắm. Mẹ còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Khát vọng ấy là khát vọng của con người yêu tự do, khát vọng tự do mãnh liệt. Và hành động “Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy chiếc váy hoa vắt ở phía trong vách… Mị rút thêm cái áo” đã cho thấy sự bứt phá của Mị với bản năng sống mãnh liệt bất chấp cả cường quyền, thần quyền. Ngay cả khi bị A Sử trói đứng vào cột “tóc Mị xõa xuống, hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng được đầu nữa”. Nhưng Mị vẫn thản nhiên, Mị không hề biết mình đang bị trói, thậm chí khi tiếng sáo nhập vào hồn Mị, Mị đã “vùng bước đi”. Điều đó cho thấy, sức sống tinh thần trong Mị đã lớn dậy, nó đã lấn át cả nỗi đau về thể xác. Cũng có nghĩa là bóng ma thần quyền, cường quyền đã khuất phục trước sức sống ấy của Mị.
Sức sống mãnh liệt ấy lại một lần nữa trỗi dậy trong đêm cứu A Phủ. Lúc đầu, Mị dửng dưng vô cảm trước cái chết cận kề của A Phủ. Nhưng sau đó, dòng nước mắt của A Phủ “bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã thức dậy lòng thương người trong Mị. Lòng thương người ấy đã làm sống dậy trong Mị sức phản kháng mạnh mẽ. Nếu nói đêm tình mùa xuân là “tia lửa nhỏ” thì đêm cứu A Phủ là “đám cháy lớn”. Đám cháy ấy bùng lên khi Mị nhận thức được tội ác cha con nhà thống lý “Trời ơi chúng trói người ta đến chết thì thôi, chúng nó trói chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này. Chúng nó thật độc ác”. Nhận thức ấy là nhận thức hoàn toàn bằng lí trí, bằng sự tỉnh táo. Từ nhận thức ấy mà sự nổi loạn thứ hai của Mị mới thật là mong muốn của người đọc. Mị đã cắt đứt dây trói cho A Phủ. Rồi Mị cũng vụt chạy theo A Phủ vì theo Mị “Ở đây thì chết mất”. Hơn một lần trong truyện này Mị sợ chết. Lần đầu là thức dậy sau đêm bị trói nghĩ đến người đàn bà đời trước bị trói đến chết trong căn nhà này “Mị sợ quá. Mị cựa quậy xem mình còn sống hay là đã chết”. Lần thứ hai là lúc Mị cắt đứt xong dây trói cho A Phủ. Như vậy, sợ chết là biểu hiện cao độ nhất của lòng ham sống. Đó là vẻ đẹp sức sống tiềm tàng của con người lao động Tây Bắc và niềm tin của nhà văn vào khả năng vươn dậy của nhân vật.
+ Bên cạnh đó, nhà văn Tô Hoài còn nhìn thấy bản chất đẹp đẽ của A Phủ, một chàng trai của núi rừng tự do. Anh yêu lao động, giỏi giang: “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo…”. A Phủ rất khỏe, chạy nhanh như ngựa. A Phủ đã trở thành niềm khát khao của bao cô gái trong làng “Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà”. Nhưng A Phủ nghèo nên không lấy được vợ. Tuy vậy, vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn, A Phủ vẫn sống một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, yêu chính nghĩa, tự tin của tuổi trẻ. “Đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như nhiều trai làng khác, A phủ chỉ có độc một chiếc vòng trên cổ. A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, con quay và quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”. Trong cảnh xử kiện, dù bị đối xử tàn tệ nhưng A Phủ chỉ quỳ và “im như tượng đá” đó là bản tính gan góc rất đáng quý. Lúc được Mị cứu, dù đã kiệt sức nhưng A Phủ đã “quật sức vùng lên chạy”. Phải chăng ở con người đó luôn tiềm ẩn lòng yêu đời, khát sống, khát tự do. Có lẽ vì vậy mà khi sang Phiềng Sa, A Phủ đã nhanh chóng trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng Mị giải phóng quê hương.
+ Nhà văn đã chỉ ra con đường giải phóng thực sự của người lao động là đi từ tự phát đến tự giác. Mị và A Phủ từ tăm tối đau thương đã vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm. Họ đã cùng nhau đạp qua đêm tối, vươn đến ngày mai ở Phiềng Sa, nên vợ nên chồng. Cả hai người đã theo Cách mạng, theo Đảng, đánh giặc, bảo vệ quê hương và thay đổi số phận của mình. Cũng qua đó, tác giả đã bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống của con người và là bài ca ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặc biệt là sức sống tiềm tàng và hành động tự giải phóng của nhân vật, đồng thời đặt niềm tin và sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng sống tốt đẹp của con người dù bị đày đọa đau khổ.
- Tư tưởng nhân đạo sâu sắc như vậy nhờ có những thành công đặc biệt về phương diện nghệ thuật. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, cụ thể qua nhân vật Mị. Nghệ thuật xây dựng nhân vật có nhiều điểm đặc sắc: nếu nhân vật Mị được miêu tả tâm trạng rất thực thì nhân vật A Phủ được chú ý đến hành động để thể hiện tính cách nhân vật. Nhà văn còn có biệt tài miêu tả phong tục, tập quán, phong cảnh thiên nhiên sinh động. Nghệ thuật kể chuyện sinh động, tự nhiên, hấp dẫn; ngôn ngữ rất tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi và thực sự đã để lại dấu ấn của Tô Hoài đối với người đọc.
III. KẾT BÀI

Tóm lại, "Vợ chồng A Phủ" mang ý nghĩa tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Nó được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc với nỗi đau của con người, sự nâng niu nét đẹp tâm hồn mà hơn cả là sự hướng tới giải phóng cho con người tiêu biểu là số phận của Mị và A Phủ. Chính vì những giá trị nhân văn cao đẹp ấy mà nửa thế kỷ trôi qua, tác phẩm của Tô Hoài ngày một thêm sáng giá.

Thứ Tư, 30 tháng 1, 2019

Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.

Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.
MB:
- Kim Lân (1920-2007) là nhà văn thành công về đề tài nông thôn và người nông dân; có một số tác phẩm có giá trị về đề tài này. Tác phẩm Vợ nhặt (in trong tập Con chó xấu xí, 1962) được viết sau khi hòa bình lập lại ở miền bắc 1954, dựa trên một phần cốt truyện cũ của tiểu thuyết Xóm ngụ cư.
- Cho đến nay trong nền văn học hiện đại Việt Nam chưa có tác phẩm nào về trận đói năm Ất Dậu - 1945 thật hay, thật xúc động như truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Truyện ngắn đã phản ánh nỗi đau khổ và niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc của người nghèo, qua đó nói lên số phận con người trong xã hội cái đêm trước khi cách mạng bùng nổ. Giá trị lớn nhất của truyện "Vợ nhặt" là giá trị nhân đạo.
TB:
- Giải thich: Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng trỗi dậy ở họ.
- Trước hết, Kim Lân bộc lộ niềm xót xa đối với cuộc sống thê thảm của người dân nghèo trong nạn đói năm 1945; qua đó tố cáo tội ác tày trời của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói.
+ Phân tích bối cảnh chính của truyện "Vợ nhặt" diễn ra ở một xóm ngụ cư, ở đó cái đói đang hành hạ mọi người, cái đói thấm đến tận cái nhìn vào cảnh vật (phân tích không khí năm đói; âm thanh năm đói và đặc biệt chân dung con người năm đói: người chết, người sống nói chung, mẹ con Tràng và người vợ nhặt nói riêng). Vì xuất thân từ nông dân và từng trải qua nạn đói khủng khiếp năm 1945 nên tác giả viết về họ thật cảm động, đầy tình yêu thương.
+ Qua đó, KL gián tiếp tố cáo tội ác của Pháp và Nhật (đằng thì nó bắt dân ta đóng thuế, đằng thì nó bắt dân ta nhổ lúa trồng đai; tội ác của chúng được Bác hồ lên án trong “Tuyên ngôn độc lập”)

- Biểu hiện thứ hai của giá trị nhân đạo là KL đi sâu khám phá và trân trọng nâng niu khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống của con người.
+ Trước hết là khát vọng hạnh phúc của Tràng. Khi nhặt được vợ về Tràng không phải không biết "chợn", "thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng". Nhưng rồi anh ta "tặc lưỡi": "Chậc, kệ!". Sau tiếng đó mọi sự đùa cợt lập tức khép lại nhường chỗ cho sự nghiêm trang và anh ta đã được đền bù: "Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề [...], một cái gì đó mới mẻ, lạ lẫm chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng". Cuộc đời cùng khốn đến mức việc mua có hai hào dầu cũng là cái gì đó hoang phí lắm "hai hào đấy, đắt quá", "vợ mới vợ miếc thì cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chẳng nhẽ chưa tối đã súc ngay vào". Hôm nay là một ngày khác hẳn, một sự kiện của đời Tràng, ngày Tràng có vợ và nhà cần phải sáng.
+ Tiếp đó là khát khao sống rất mạnh mẽ ở nhân vật người vợ nhặt. Thị chấp nhận bỏ qua ý thức về danh dự để theo không Tràng. Như vậy hoàn cảnh bi đát một mặt đẩy con người vào chỗ quên cả danh dự để tồn tại, mặt khác nó lại làm bộc lộ lòng ham sống mãnh liệt của những con người ở dưới đáy xã hội như thị. Tất cả mọi người đều có ý thức vun đắp cho cuộc sống mới. Ngẫm nghĩ về nhân vật bà cụ Tứ ta còn thấy hóa ra chính bà lão gần đất xa trời này lại là người nói đến hy vọng, đến ngày mai nhiều hơn tất cả: từ việc đan cái phên ngăn riêng chỗ của vợ chồng đứa con cho kín đáo, truyện "khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà"... "Mẹ chồng nàng dâu thu dọn cửa nhà, sáng hôm sau thị dậy từ sớm quét dọn nhà cửa cho ngăn nắp, gọn gàng" hình như ai nấy đều nghĩ rằng "thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể sẽ khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn". Qua tác phẩm ta còn thấy niềm hy vọng về một cuộc đổi đời của các nhân vật được thể hiện qua hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới vấn vương trong tâm trí Tràng.

- Giá trị nhân đạo của truyện còn được thể hiện ở lòng tin sâu sắc vào sự đổi đời, vào lòng nhân hậu của con người và khả năng đến với cách mạng của họ
+ Tràng tuy có vẻ bề ngoài xấu xí nhưng cái đẹp tiềm ẩn bên trong của Tràng đó là sự cảm thông, lòng thương người, sự hào phóng chu đáo. Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc, mua một chai dầu và mua cho thị một cái thúng con, đó là hành động rất bình thường nhưng nó thể hiện tình nghĩa và thái độ trách nhiệm của Tràng.
+ Còn về người "vợ nhặt" thì đã có sự biến đổi về tính cách, trước khi về làm vợ Tràng, thị hiện lên với một vẻ chao chát, chỏng lỏn. Trước câu hò của Tràng thị cong cớn nói "có khối cơm trắng mấy giò đấy", lần thứ hai gặp Tràng thị sưng sỉa nói: "Điêu! Người thế mà điêu"...Nhưng người đàn bà ấy sau khi về làm vợ Tràng đã thay đổi, vẻ chao chát chỏng lỏn ban đầu biến mất, thay vào đó là sự hiền hậu đúng mực, sự ý tứ trong cách cư xử: Thị đi theo Tràng với dáng điệu đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tang, nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt, khi về đến nhà thị chỉ dám ngồi mớm ở mép giường. Sáng hôm sau dậy từ sớm quét dọn nhà cửa....
+ Còn về bà cụ Tứ, bà thương con hết mực, cảm thông cho tình cảnh của nàng dâu mới "có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ", bà ân cần trong cách hành động với con dâu "con ngồi xuống đây, ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân". Bà luôn trăn trở về nghĩa vụ làm mẹ của mình "chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi...còn mình thì", trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt. Bà luôn cố tạo niềm vui cho gia đình giữa cảnh sống thê thảm. Người mẹ ấy sống vì con và tìm thấy ý nghĩa của đời mình trong sự chăm lo vun vén cho con.
+ Biểu hiện cuối cùng của giá trị nhân đạo là nhà văn đã hé mở con đường đổi đời tươi sáng, tích cực cho người dân khốn cùng: Hình ảnh “đoàn người ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ to lắm” là hình ảnh Việt Minh đi phá kho thóc của Nhật để chia cho dân nghèo. Nhà văn tin tưởng rằng: những người dân nghèo khổ như Tràng sẽ đấu tranh dưới ngọn cờ của Đảng. Đó chính là con đường giúp họ đổi đời đúng đắn, tươi sáng nhất.
- Nghệ thuật: GTNĐ của tác phẩm được thể hiện sâu sắc, truyền tải đến người đọc nhẹ nhàng mà không kém sâu sắc là nhờ tài xây dựng tình huống truyện độc đáo; cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn; dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc. Nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, ấn tượng, thể hiện tâm lí tinh tế. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng chắt lọc và giàu sức gợi.
KB:
Giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ nhặt đó là niềm tin tưởng sâu sắc vào con người lao động, vào bản năng sống, khát vọng sống mạnh mẽ của họ. Tình cảm nhân đạo của tác phẩm có nét mới mẻ hơn so với tình cảm nhân đạo được thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học hiện thực trước cách mạng tháng Tám.



Thứ Bảy, 26 tháng 1, 2019

Nhân vật A Phủ

Nằm trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953), truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một trong những ”đứa con tinh thần” ưu tú của chuyến đi thực tế miền núi Tây Bắc của Tô Hoài (1952). Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét cuộc sống và số phận bất hạnh của những người nông dân nghèo dưới ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến. Qua đó, tác giả cũng làm nổi bật lên khát vọng và nghị lực sống mãnh liệt của họ. Bên cạnh nhân vật Mị, A Phủ chính là một nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc về bản lĩnh vượt lên số phận của chính mình.

A Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường như lại khiến người cho đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. Nhân vật xuất hiện trước mắt người đọc trong lần đánh nhau với A Sử – con trai thống lí Pá Tra nên bị bắt, bị phạt vạ và đánh đập rất dã man. Từ đây, tác giả đã ngược dòng để kể về số phận đặc biệt của A Phủ, giúp người đọc hình dung rõ hơn về con đường đời vượt lên số phận của anh.

A Phủ là một đứa trẻ sinh ra trong nghèo khổ, đau đớn hơn lại mồ côi cả cha lẫn mẹ sau một trận dịch đậu mùa tại làng Háng-bla. Chính vì thế mà cả năm tháng tuổi thơ của anh phải sống kiếp nô lệ đọa đày khi bị người làng bắt trói rồi đem bán cho người Thái ở dưới cánh đồng thấp. Thế nhưng, không chịu khuất phục số phận, A Phủ đã liều lĩnh bỏ trốn lên Hồng Ngài, làm thuê làm mướn đủ nghề từ mùa này sang mùa khác để kiếm sống nuôi thân.
Từ khi trưởng thành, A Phủ còn có sức khỏe hơn người: “A Phủ chạy nhanh như ngựa”, “Công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng”. Chính nghị lực sống và sức khỏe của anh đã khiến cho nhiều cô gái và người làng yêu mến. Nhiều cô gái kháo với nhau: “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”. Nhưng tiếc thay, A Phủ lại là người không cha không mẹ, không nhà cửa, không ruộng nương và vì tập tục cưới vợ của người Mèo phải có bạc trắng cho nên việc lấy vợ với anh là chuyện quá xa xôi. Một chàng trai khỏe mạnh và cá tính như anh đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc vậy mà cuối cùng vẫn phải một mình cô độc như thế. Đau khổ hơn nữa, A Phủ đã xô xát đánh nhau với A Sử - con trai của thống lí Pá Tra và chính vì điều này, A Phủ là đứa con của núi rừng, tự do mà vẫn không thoát khỏi kiếp sống nô lệ.
Số phận của A Phủ cũng giống như Mị, bị thế lực thống trị chà đạp và biến thành nô lệ một cách đáng thương. Qua đó, Tô Hoài đã lên án xã hội thực dân phong kiến trước Cách mạng quá nhẫn tâm đẩy con người vào con đường không lối thoát. Một số phận đặc biệt như vậy chắc chắn sẽ là một con người có tính cách, phẩm chất đặc biệt.
          A Phủ có một tính cách, cá tính rất mạnh mẽ. Năm mười tuổi khi bị bán để đổi thóc cho người Thái, phải ở cánh đồng thấp, anh không chịu được mà trốn lên cánh đồng cao. Chỉ chi tiết này thôi cũng phần nào hiểu được cá tính của anh. Bản lĩnh gan góc, sức sống tiềm tàng đã được trui rèn trong những năm tháng cơ cực từ bé. A Phủ càng chứng tỏ con người gan góc, không chịu khuất phục, luôn có ý chí vượt lên số phận cay đắng để vươn đến những điều tốt đẹp nhất của mình và đó cũng chính là một trong những điều tạo nên sự bứt phá về sau trong cuộc đời A Phủ. Chàng “biết đúc lưỡi cày”, “đi săn bò tót rất bạo” cho thấy chàng là người siêng năng, yêu lao động, yêu cuộc sống tự do. Tuy nghèo đói, cơ cực nhưng A Phủ luôn sống lạc quan, tự tin vào tương lai phía trước và khát khao hạnh phúc cháy bổng. Vào những ngày tết, A Phủ không có quần áo mới như những anh con trai khác mà “chỉ có độc một chiếc vòng cổ” nhưng “A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong vùng”. Tác giả đã phát hiện ra vẻ đẹp ẩn sâu trong người lao động nghèo khổ. Một nét đẹp kế thừa từ văn học trước cách mạng.
Đặc biệt anh không hề sợ con quan, yêu chính nghĩa, ghét bọn cường quyền hống hách. Vì thế, anh đánh nhau với A Sử – con trai thống lí Pá Tra. Anh đánh A Sử mà không phải sợ sệt hay kiêng nể chịu lép vế vì A Sử là con quan. Gặp chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn xông vào để bênh vực cho bạn của mình. Hành động mạnh mẽ, quyết liệt của A Phủ: "Chạy vụt ra, vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp...". Hành động dữ dội đó của A Phủ có nguyên cớ sâu xa từ mối hận thù giai cấp.
Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ đã bị bọn người nhà thống lý đánh đập hết sức dã man, tàn bạo từ trưa cho đến đêm muộn. “Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu”. Thế nhưng bọn người nhà thống lý “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Mặc dù bị đánh đập và rất đau đớn nhưng A Phủ không hề khóc lóc van xin mà trái lại “A Phủ quỳ, chịu đòn, chỉ im như tượng đá”. Sự im lặng chịu đựng của anh đã cho thấy bản lĩnh gan dạ, mạnh mẽ, cứng cỏi, không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai và sự bất lực, căm phẫn đến tột độ vì không thể làm gì được. Cuối cùng kết thúc phiên xử kiện tàn độc, A Phủ đã bị thống lý Pá Tra buộc làm nô lệ không công suốt đời cho nhà hắn để trừ nợ. Đó là kiếp người sống mà bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải đảm đương cả những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất như “săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò bãi, nương rừng”.
Với cảnh xử kiện và kết quả của cuộc xử kiện đã cho thấy giai cấp địa chủ thống trị dường như luôn luôn tìm cách đẩy người nông dân bần cùng xuống dưới đáy của xã hội, không cho họ có một chút cơ hội nào ngoi lên đòi quyền sống và được làm người đúng nghĩa. Có thế bọn địa chủ mới hả hê, mới yên lòng.
Chế độ xã hội phong kiến ở miền núi Tây Bắc còn tàn độc đến mức, con người có thể nắm giữ mạng sống của con người, có quyền sinh-sát đối với người khác. Là con nợ, là nô lệ cho nên tính mạng của A Phủ sống hay chết là nằm trong bàn tay thống lý Pá Tra. Do đó, chỉ vì để hổ vồ mất bò, A Phủ lại bị đánh, bị trói vào cọc “bằng dây mây quấn từ chân lên vai”. Rất có thể A Phủ sẽ phải chết “chết đau, chết đói, chết rét”-những cảnh tương tự mà Mị từng chứng kiến trong nhà thống lý Pá Tra-để thế mạng cho con bò đã bị hổ ăn thịt. Tuy vậy, với sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khát khao tự do cháy bổng, A Phủ nhất định không chịu chết chôn chân ở cái cọc gỗ ấy mà anh luôn tìm cách tự giải thoát: “Đêm đến, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai đầu dây, nhích dần dây trói một bên tay”. Nhưng chưa kịp đứt ra thì trời vừa sáng, Pá Tra lại tròng thêm vào cổ A Phủ một vòng dây trói nữa. “A Phủ không cúi, không còn lắc được nữa” đành chịu “đứng nhắm mắt, cho tới đêm khuya”. Và dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen của anh chính là những giọt nước mắt của sự cay đắng, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng. Cũng chính vì trông thấy những giọt nước mắt đau đớn và tuyệt vọng ấy mà Mị đã bùng lên ngọn lửa đấu tranh, quyết định cởi trói cho A Phủ và cho chính mình. Hai người dìu nhau trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích ở Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. Từ đây A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, giải phóng bản làng quê hương. Hình ảnh A Phủ cùng Mị trốn khỏi nhà thống lý Pá Tra, giác ngộ được chân lý cách mạng là một hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc.
Nhà văn Tô Hoài thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật miền núi cao Tây Bắc. Nhân vật A Phủ chủ yếu được tác giả khắc hoạ qua chuỗi hành động để làm nổi bật tính cách táo bạo, gan góc và tinh thần phản kháng của một chàng trai miền núi có tâm hồn tự do, phóng khoáng. Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Biệt tài của nhà văn là miêu tả A phủ - con người đậm phong tục, tập quán của người dân miền núi. Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ,…

Cùng với Mị, cuộc đời và tính cách của A Phủ có ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và phẩm chất của người dân vùng cao Tây Bắc. Từ trong tăm tối của đau khổ, tủi nhục, bằng sức mạnh của chính mình họ đã vươn tới ánh sáng của nhân phẩm và tự do, ánh sáng của Cách mạng. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo mới mẻ và sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này.

Thứ Tư, 16 tháng 1, 2019

Sức sống của Mị trong đêm tình mùa xuân

Sức sống của Mị trong đêm tình mùa xuân
Từ một cô gái trẻ trung yêu đời, Mị đã bị biến thành công cụ lao động, ý thức tê liệt từ khi  bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí. Nhưng ở người con gái ấy có một sức sống mạnh mẽ. Ngọn lửa của lòng ham sống, muốn được sống tự do, hạnh phúc; muốn được yêu thương vẫn cứ tiềm tàng và  âm ỉ cháy đâu đó nơi thẳm sâu ở tâm hồn Mị. Như thỏi than hồng bị giấu vùi dưới đống tro tàn, khi có ngoại cảnh tác động, nó sẽ nhen lên, để rồi bùng cháy mạnh mẽ. Khát vọng hạnh phúc ở Mị có thể bị vùi lấp bởi sự đày  đọa  áp bức của  cường quyền, sự ràng buộc của thần quyền nhưng khát vọng ấy không hề tiêu tan mà sẽ hồi sinh khi có cơ hội. Tô Hoài đã phát hiện và miêu tả sự hồi sinh ấy bằng những trang viết thấm đẫm tình người.
Để chuẩn bị cho  việc trỗi dậy sức sống của Mị, Tô Hoài  đã miêu tả những yếu tố ngoại cảnh tác động đếntâmhồn cô. Tác nhân đầu tiên chính là vẻ đẹp, sức sống của mùa xuân. “Trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Trai gái, trẻ con ra sân chơi tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy”. Những đêm mùa xuân của vùng cao TB là những đêm tình của trai gái hẹn hò. Không khí  mùa xuân về trên  rẻo cao đã khiến lòng Mị xốn xang những cảm xúc.
Tác nhân tiếp theo là âm thanh tiếng sáo. Tiếng sáo là bài ca về hạnh phúc, là biểu tượng về tình yêu đôi lứa.Tiếng sáo gợi nhắc một thời vàng son của Mị: “Ngày trước Mị thổi sáo giỏi” “Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Âm thanh tha thiết của tiếng  sáo đã tác động mạnh mẽ đến tâm  hồn Mị, khơi dậy những kỉ niệm về tuổi thanh xuân bấy lâu bị vùi lấp trong cuộc sống làm dâu gạt nợ đầy cơ cực cay đắng. Tiếng sáo như ngọn gió len lỏi vào sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức khát vọng hạnh phúc lứa đôi, thổi bùng lên đốm lửa sống tưởng chừng đã nguội tắt trong Mị.Sự thức tỉnh về mặt ý thức đã dẫn đến những hành động gần như tất yếu của Mị.
– Diễn biến tâm lí, hành động của Mị:
Khi nghe tiếng sáo đầu núi vọng lại, Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi. Một cô Mị bao ngày câm lặng lầm lũi giờ bỗng cất tiếng hát, dù đó chỉ là những tiếng nhẩm thầm, thì vẫn là một tín hiệu về sự đổi thay.  Rồi Mị uống rượu.  Mị “lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cái cách Mị uống rượu được nhà văn đặc tả đầy ấn tượng. Không phải là uống để thưởng thức  mà là uống như để quên đi phần đời cay đắng vừa qua, uống để nén bao nhiêu tủi cực vào lòng. Chén rượu xuân đã đánh thức sức mạnh trong con người Mị, giúp cô can đảm thoát ra  thực trạng bị trói buộc, cầm tù về thể xác lẫn tinh thần. Lòng cô đang sống lại những ngày trước.Lúc này, tâm hồn Mị nhưthăng hoa trong ngập tràn cảm xúc. Từ trong chết mòn,chai  lì vô cảm, Mị bỗngthấy “phơi phới trở lại”. Cô “đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Rồi cô nhận ra: Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.Lần đầu tiên, sau những tháng ngày mất hết ý niệm về thời gian, không gian, mất hết ý thức về bản thân, bây giờ Mị đã có ý thức trở lại. Mị nhận ragiá trị và  khát vọng của mình,thấy quyền mình được sống, được đi chơi Tết như bao người phụ nữ có chồng khác. Thế rồi, lòng ham sống trong Mị đã trỗi dậy.Khát vọng hạnh phúc thuở nào trong Mị đã bừng tỉnh.

Sự tự ý thức của Mị chính là biểu hiện của lòng yêu đời, yêu cuộc sống đang bừng dậy trong tâm hồn cô , là biểu hiện của khát vọng tự do và bình đẳng.. Không những thế, trong giây phút ấy, Mị còn thầm so sánh mình với người đàn bà khác để nhận  ra sự  bất công mà mình phải chịu. Và cũng chính lúc này, Mị cảm nhận rõ sự bất hạnh của mình “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.  Nếu có lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay… Nếu trước đây Mị chai sạn, vô cảm với những nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần,Mị không còn tưởng đến việc ăn lá ngón tự tử thì giờ đây Mị lại muốn chết ngay khi nhận ra hoàn cảnh thực tại đầy cay đắng của mình.Đó chính là biểu hiện của sự phản kháng với hoàn cảnh, của sự xung đột gay gắt giữa một bên là khát vọng sống được thức tỉnh với một bên là thực tại bất hạnh vẫn đang hiện hữu. Khi Mị thấy nước mắt ứa ra, là chứng tỏ ý thức của Mị đang hồi sinh, Mị cảm nhận được hoàn cảnh đau xót tủi nhục của mình.Tô Hoài đã miêu tả thành công công những xung đột gay gắt trong  lòng Mị, đó là xung  đột giữa lòng yêu đời và sự chán đời, giữa lòng ham sống với sự tuyệt vọng vì bị cầm tù, đày  đọa.
Tuy nhiên tiếng sáo vẫn bay lơ lửng ngoài đường.Trong đoạn trích, tiếng sáo được nhắc đến nhiều lần là một dụng ý nghệ thuật. Cả không gian ngập tràn tiếng sáo. Tiếng sáo rủ bạn đi chơi nơi đầu núi.  .Tiếng sáo ấy như tiếng gọi tha thiết của tình yêu và cuộc sống đã thôi thúc Mị hành động. Mị đến góc nhà “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Câu văn không chỉ miêu tả hành động của Mị thắp lên ngọn đèn vật lýđể thắp sáng căn buồng  mà còn bao hàm ý nghĩa Mị đang thắp sáng cuộc đời quá ngột ngạt, tăm tối của mình.  Mị thắp lên ánh sang  để xua đi bao âm u, lạnh lẽo nơi ngục thất đang giam hãm tuổi thanh xuân và khát vọng hạnh phúc của Mị, cũng làthắp lên ngọn lửa lòng, ngọn lửa sống trong tâm hồn Mị. Trong đầu Mị luôn chập chờn ý nghĩ: Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Ý nghĩ ấy thúc giục Mị tiếp tục hành động nối tiếp hành động: Quấn lại tóc, lấy cái váy hoa để đi chơi xuân.Từ một người đàn bà cam chịu lầm lũi, ý thức tê liệt, cả cái chết để giải thoát cũng không muốn,  bây giờ lại muốn làm đẹp muốn đi chơi, là cả một quá trình thay đổi lớn. Ta thấy Mị  đang dần dần hồi sinh với những cảm xúc  rất chân thực, những mong muốn rất chính đáng của một con người.
Giữa lúc lòng yêu đời, sự ham sống, sức hồi sinh trỗi dậy mãnh liệt nhất thì cũng là lúc nó bị quật xuống phũ phàng nhất. A Sử thản nhiên, lầm lì trói đứng Mị vào cột nhà.Hành động tàn bạo ấy của hắnđã trói cái khát vọng vừa mới manh nha, của người phụ nữ tội nghiệp. Sợi dây trói là hiện thân hung tợn của một lối hành xử đầy tính dã man thời trung cổ, hiện thân của sự vùi dập quyền sống chính đáng, tự do và hạnh phúc của con người. Việc A Sử tắt đèn,“khép cửa buồng lại” một cách lạnh lùng tàn nhẫn như dập tắt luônsự sống vừa mới bùng lên trong Mị, phong kín cánh cửa tâm hồn mà mị vừa hé mở..

Mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, men rượu nồng nàn đã khơi dậy sức sống mạnh mẽ trong tâm hồn Mị. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt ấy đã bùng lên thành ngọn lửa khao khát sống, khao khát tự do, hạnh phúc.Mặc dù ngọn lửa ấy bị AS dập tắt một cách tàn bạo ,sự trỗi dậy của tâm hồn Mị trong đêm tình mùa xuân chưa thể đổi thay cuộc đời và số phận nhưng đó chính là những  biểu hiện tích cực thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của Mị.

Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài).

Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài).
Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập "truyện Tây Bắc" (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong "Vợ chồng A Phủ" không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái "dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi". Đó là tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi". Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.
Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.
Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa... Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ không thể "trói" được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.
Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó.
Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay "Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi". Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lý trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn ác hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này.
Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi, còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…
Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.
Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.

Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.

Phân tích đoạn trích “Vợ Chồng A Phủ”

Phân tích đoạn trích “Vợ Chồng A Phủ”
 Truyện “Vợ chồng A Phủ” được trích từ tập “Truyện Tây Bắc” (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết  truyện này. Tô Hoài  thành công  trong “Vợ chồng A Phủ” không chỉ do vốn sống,  tình cảm sống của mình mà còn    do  tài năng  nghệ  thuật  cùa một cây  bút  tài  hoa.
Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ  thuật,  trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và  thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm  lý và hành động của nhân vật Mị  trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta  thấy được giá trị hiện  thực và nhân đạo của tác phẩm.
            Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái “dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi”. Đó là tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà  thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang  tiếng  là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng  thật sự Mị chỉ  là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó  làm Mị đau khổ, Mị khóc  ròng  rã mấy  tháng  trời và từng có ý định ăn nắm  lá ngón kết  thúc cuộc đời mình. Thế nhưng “sống  lâu  trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn
và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.
            Song song với nét  tính cách đó lại  là  tâm  trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.
            Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc  sau  cao hơn  cung bậc  trước. Ban  đầu, Mị  nghe  tiếng  sáo Mèo quen  thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa… Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có  thể “trói” được  thân xác Mị chứ không  thể “trói” được  tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy  thật  là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó  là đêm cô  thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.
           Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại  tiếp tục sống kiếp đời  trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó.
           Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính  là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫnthản nhiên thổi lửa hơ tay “Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng  thế  thôi”. Tại sao Mị lại  lãnh cảm,  thờ ơ  trước sự việc ấy? Phải chăng việc  trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan  tâm đến. Hay bởi Mị “sống  lâu  trong cái khổ, Mị quen  khổ rồi” nên Mị  lãnh đạm,  thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người  trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó  là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính “dòng nước mắt lấp  lánh ấy” đã  làm  tan chảy lớp băng giá lạnh  trong  lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người,  trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân  trước Mị cũng bị A Sử  trói đứng  thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở  trong cái nhà này”. Lý  trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó  thật độc ác”. Việc  trói người đến chết còn ác hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình  thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt
A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không  thấy sợ, sự suy tưởng của Mị  là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống,  tài hoa chăm chỉ, hiếu  thảo,  tha  thiết với  tình yêu  thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã  tàn ác khi  trói một người đàn bà ngày  trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp  lánh” của A Phủ,  tâm  trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị  thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa  trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mìnhbị  trói đứng… Một  loạt nét  tâm  lí ấy  thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này.
            Sau khi cắt dây cởi  trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám  làm một chuyện động trời đến vậy. Mị  thì  thào  lên một  tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi, còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang  trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng
Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn  lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao  tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…
             Rõ  ràng,  trong đêm mùa  đông này, sức sống  tiềm  tàng đóng một  vai  trò hết sức  quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt  lên  trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm  thông và xót  thương cho số phận hẩm hiu, không lối  thoát của Mị. Thế nhưng bằng một  trái  tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại  trong  trái  tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn  sáng  lên ở đó. Đồng  thời qua  tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu  tranh để chống lại nó dù đó  là sự vùng  lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.
             Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong  truyện ngắn này. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.
             Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa”.