Thứ Bảy, 26 tháng 1, 2019

Nhân vật A Phủ

Nằm trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953), truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một trong những ”đứa con tinh thần” ưu tú của chuyến đi thực tế miền núi Tây Bắc của Tô Hoài (1952). Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét cuộc sống và số phận bất hạnh của những người nông dân nghèo dưới ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến. Qua đó, tác giả cũng làm nổi bật lên khát vọng và nghị lực sống mãnh liệt của họ. Bên cạnh nhân vật Mị, A Phủ chính là một nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc về bản lĩnh vượt lên số phận của chính mình.

A Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng dường như lại khiến người cho đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. Nhân vật xuất hiện trước mắt người đọc trong lần đánh nhau với A Sử – con trai thống lí Pá Tra nên bị bắt, bị phạt vạ và đánh đập rất dã man. Từ đây, tác giả đã ngược dòng để kể về số phận đặc biệt của A Phủ, giúp người đọc hình dung rõ hơn về con đường đời vượt lên số phận của anh.

A Phủ là một đứa trẻ sinh ra trong nghèo khổ, đau đớn hơn lại mồ côi cả cha lẫn mẹ sau một trận dịch đậu mùa tại làng Háng-bla. Chính vì thế mà cả năm tháng tuổi thơ của anh phải sống kiếp nô lệ đọa đày khi bị người làng bắt trói rồi đem bán cho người Thái ở dưới cánh đồng thấp. Thế nhưng, không chịu khuất phục số phận, A Phủ đã liều lĩnh bỏ trốn lên Hồng Ngài, làm thuê làm mướn đủ nghề từ mùa này sang mùa khác để kiếm sống nuôi thân.
Từ khi trưởng thành, A Phủ còn có sức khỏe hơn người: “A Phủ chạy nhanh như ngựa”, “Công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng”. Chính nghị lực sống và sức khỏe của anh đã khiến cho nhiều cô gái và người làng yêu mến. Nhiều cô gái kháo với nhau: “Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”. Nhưng tiếc thay, A Phủ lại là người không cha không mẹ, không nhà cửa, không ruộng nương và vì tập tục cưới vợ của người Mèo phải có bạc trắng cho nên việc lấy vợ với anh là chuyện quá xa xôi. Một chàng trai khỏe mạnh và cá tính như anh đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc vậy mà cuối cùng vẫn phải một mình cô độc như thế. Đau khổ hơn nữa, A Phủ đã xô xát đánh nhau với A Sử - con trai của thống lí Pá Tra và chính vì điều này, A Phủ là đứa con của núi rừng, tự do mà vẫn không thoát khỏi kiếp sống nô lệ.
Số phận của A Phủ cũng giống như Mị, bị thế lực thống trị chà đạp và biến thành nô lệ một cách đáng thương. Qua đó, Tô Hoài đã lên án xã hội thực dân phong kiến trước Cách mạng quá nhẫn tâm đẩy con người vào con đường không lối thoát. Một số phận đặc biệt như vậy chắc chắn sẽ là một con người có tính cách, phẩm chất đặc biệt.
          A Phủ có một tính cách, cá tính rất mạnh mẽ. Năm mười tuổi khi bị bán để đổi thóc cho người Thái, phải ở cánh đồng thấp, anh không chịu được mà trốn lên cánh đồng cao. Chỉ chi tiết này thôi cũng phần nào hiểu được cá tính của anh. Bản lĩnh gan góc, sức sống tiềm tàng đã được trui rèn trong những năm tháng cơ cực từ bé. A Phủ càng chứng tỏ con người gan góc, không chịu khuất phục, luôn có ý chí vượt lên số phận cay đắng để vươn đến những điều tốt đẹp nhất của mình và đó cũng chính là một trong những điều tạo nên sự bứt phá về sau trong cuộc đời A Phủ. Chàng “biết đúc lưỡi cày”, “đi săn bò tót rất bạo” cho thấy chàng là người siêng năng, yêu lao động, yêu cuộc sống tự do. Tuy nghèo đói, cơ cực nhưng A Phủ luôn sống lạc quan, tự tin vào tương lai phía trước và khát khao hạnh phúc cháy bổng. Vào những ngày tết, A Phủ không có quần áo mới như những anh con trai khác mà “chỉ có độc một chiếc vòng cổ” nhưng “A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong vùng”. Tác giả đã phát hiện ra vẻ đẹp ẩn sâu trong người lao động nghèo khổ. Một nét đẹp kế thừa từ văn học trước cách mạng.
Đặc biệt anh không hề sợ con quan, yêu chính nghĩa, ghét bọn cường quyền hống hách. Vì thế, anh đánh nhau với A Sử – con trai thống lí Pá Tra. Anh đánh A Sử mà không phải sợ sệt hay kiêng nể chịu lép vế vì A Sử là con quan. Gặp chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về mình và không biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn xông vào để bênh vực cho bạn của mình. Hành động mạnh mẽ, quyết liệt của A Phủ: "Chạy vụt ra, vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp...". Hành động dữ dội đó của A Phủ có nguyên cớ sâu xa từ mối hận thù giai cấp.
Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ đã bị bọn người nhà thống lý đánh đập hết sức dã man, tàn bạo từ trưa cho đến đêm muộn. “Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu”. Thế nhưng bọn người nhà thống lý “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Mặc dù bị đánh đập và rất đau đớn nhưng A Phủ không hề khóc lóc van xin mà trái lại “A Phủ quỳ, chịu đòn, chỉ im như tượng đá”. Sự im lặng chịu đựng của anh đã cho thấy bản lĩnh gan dạ, mạnh mẽ, cứng cỏi, không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai và sự bất lực, căm phẫn đến tột độ vì không thể làm gì được. Cuối cùng kết thúc phiên xử kiện tàn độc, A Phủ đã bị thống lý Pá Tra buộc làm nô lệ không công suốt đời cho nhà hắn để trừ nợ. Đó là kiếp người sống mà bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải đảm đương cả những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất như “săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò bãi, nương rừng”.
Với cảnh xử kiện và kết quả của cuộc xử kiện đã cho thấy giai cấp địa chủ thống trị dường như luôn luôn tìm cách đẩy người nông dân bần cùng xuống dưới đáy của xã hội, không cho họ có một chút cơ hội nào ngoi lên đòi quyền sống và được làm người đúng nghĩa. Có thế bọn địa chủ mới hả hê, mới yên lòng.
Chế độ xã hội phong kiến ở miền núi Tây Bắc còn tàn độc đến mức, con người có thể nắm giữ mạng sống của con người, có quyền sinh-sát đối với người khác. Là con nợ, là nô lệ cho nên tính mạng của A Phủ sống hay chết là nằm trong bàn tay thống lý Pá Tra. Do đó, chỉ vì để hổ vồ mất bò, A Phủ lại bị đánh, bị trói vào cọc “bằng dây mây quấn từ chân lên vai”. Rất có thể A Phủ sẽ phải chết “chết đau, chết đói, chết rét”-những cảnh tương tự mà Mị từng chứng kiến trong nhà thống lý Pá Tra-để thế mạng cho con bò đã bị hổ ăn thịt. Tuy vậy, với sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khát khao tự do cháy bổng, A Phủ nhất định không chịu chết chôn chân ở cái cọc gỗ ấy mà anh luôn tìm cách tự giải thoát: “Đêm đến, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai đầu dây, nhích dần dây trói một bên tay”. Nhưng chưa kịp đứt ra thì trời vừa sáng, Pá Tra lại tròng thêm vào cổ A Phủ một vòng dây trói nữa. “A Phủ không cúi, không còn lắc được nữa” đành chịu “đứng nhắm mắt, cho tới đêm khuya”. Và dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen của anh chính là những giọt nước mắt của sự cay đắng, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng. Cũng chính vì trông thấy những giọt nước mắt đau đớn và tuyệt vọng ấy mà Mị đã bùng lên ngọn lửa đấu tranh, quyết định cởi trói cho A Phủ và cho chính mình. Hai người dìu nhau trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích ở Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. Từ đây A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, giải phóng bản làng quê hương. Hình ảnh A Phủ cùng Mị trốn khỏi nhà thống lý Pá Tra, giác ngộ được chân lý cách mạng là một hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc.
Nhà văn Tô Hoài thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật miền núi cao Tây Bắc. Nhân vật A Phủ chủ yếu được tác giả khắc hoạ qua chuỗi hành động để làm nổi bật tính cách táo bạo, gan góc và tinh thần phản kháng của một chàng trai miền núi có tâm hồn tự do, phóng khoáng. Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Biệt tài của nhà văn là miêu tả A phủ - con người đậm phong tục, tập quán của người dân miền núi. Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ,…

Cùng với Mị, cuộc đời và tính cách của A Phủ có ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và phẩm chất của người dân vùng cao Tây Bắc. Từ trong tăm tối của đau khổ, tủi nhục, bằng sức mạnh của chính mình họ đã vươn tới ánh sáng của nhân phẩm và tự do, ánh sáng của Cách mạng. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo mới mẻ và sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét