Thứ Tư, 26 tháng 6, 2019

PHÁT BIỂU CỦA GV TRONG LỄ TRI ÂN CỦA HS


Kính thưa quý đại biểu, kính thưa cô Nguyễn Thị Thúy Ba – HT nhà trường, kính thưa quý đồng nghiệp, quý phụ huynh cùng toàn thể học sinh yêu mến!
Cách đây 3 năm, cánh cổng trường Nguyễn Trãi mở rộng để đón chào các em, sân trường trải đầy nắng thu, nâng nhẹ bước chân các em, thầy cô giang rộng vòng tay đón các em và đưa các em đi vào con đường tri thức. Tiếng trống trường giòn giã ngày khai giảng năm ấy như muốn động viên các em hãy cố gắng miệt mài kinh sử để thành người hữu ích.
Thắm thoát mà đã 3 ba năm, thời gian cứ lao đi về phía trước, không đợi chờ một ai. Hôm nay, các em còn một dịp cuối, tề tựu nơi đây, để ôn lại những kỉ niệm tuổi học trò. Rồi ngày mai đây, các em chính thức rời xa vòng tay của thầy cô, bạn bè và rời xa mái trường Nguyễn Trãi. Và cũng từ hôm nay, các em đã thật sự trưởng thành, các em thật sự bước vào xã hội đầy chong gai, thử thách. Các em phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc đời, về tương lai của mình.
Các em học sinh thương yêu. Tất cả những thầy cô đang có mặt trong thời khắc thiêng liêng này – thời khắc được chứng kiến sự trưởng thành khôn lớn của các em - rất hạnh phúc, rất vui mừng vì được nghe những lời tri ân chân thành xuất phát tự tấm lòng của các em.
Cũng như cha mẹ các em, thầy cô rất mong các em được nên người. Cha mẹ không ngại nắng mưa kiếm tiền để cho các em có điều kiện ăn học, thầy cô không ngại ngày đêm đưa các em đến với bến bờ tri thức. Nhưng có những lúc các em làm cho thầy cô buồn. Hôm nay, các em đã nhận ra được điều đó, thầy cô rất vui vì các em thật sự trưởng thành. Thầy cô không giận các em đâu, vẫn yêu thương các em, dù các em tung bay đến chân trời nào, trong công việc nào. Thầy cô chúc các em bước vào môi trường mới thật thành công, đứng vững được trên đôi chân của mình, tiếp nối và làm rạng rỡ truyền thống vẻ vang của ngôi trường Nguyễn Trãi trong hơn 50 năm qua. Đó là cách các em tri ân thầy cô thiết thực nhất.
Các em học sinh thương yêu. Cuộc đời là những cuộc hợp – tan. Ba năm trước, chúng ta có duyên gặp nhau. Ba năm sau, tức bây giờ, chúng ta phải nói lời chia tay. Thầy mong rằng hình ảnh ngôi trường này, hình ảnh thầy cô, bạn bè này, mãi mãi theo các em, làm động lực cho các em phấn đấu.
Được nói lời dặn dò các em, thầy xin nhắc nhở các em những vấn đề sau:
- Thứ nhất, các em phải tự tin, có ý chí, quyết tâm trong học tập hay trong công việc. Có được phẩm chất đó các em sẽ thành công. Trong kì thi THPTQG đang tới gần, các em phải tự tin để có kết quả thi tốt nhất; tự tin tung cánh đến chân trời tri thức mới khi rời ra mái trường phổ thông chứa chan kỉ niệm.
- Thứ hai, các em phải trở thành người tử tế. Tử tế chính với bản thân mình bằng cách tạo cho mình một tương lai tốt đẹp. Tử tế với những người thân trong gia đình, phải biết yêu thương ông bà, cha mẹ, anh chị em; đừng để họ phải lo lắng, khổ đau vì mình. Tử tế với mọi người, với cộng đồng; sống có trách nhiệm với xã hội, không phản bội truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Thứ ba, hôm nay các em được ngồi ở đây để tri ân thầy cô, ba mẹ; thầy mong các em ghi nhớ rằng, nhà trường là một bệ phóng, gia đình là một bệ phóng, khi các em bay lên cao, các em hãy luôn nhớ tới bệ phóng ấy. Thầy mong các em hãy chiêm nghiệm ra một điều rằng: Khi ta ở chỉ là nơi đất ở, khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn.
- Thứ tư, cuộc đời ngoài kia nhiều chông gai, thử thách lắm, các em phải vững vàng làm chủ bản thân mình, nếu có vấp ngã hãy nhanh chóng đứng lên và hãy nhìn lại để rút ra bài học cho bản thân mình. Thầy tin rằng các em sẽ làm được điều đó để trở thành công dân có ích sau này.
Lời cuối, thầy chúc các em gặt được thành công trong kì thi sắp tới để từ đó tiến xa hơn nữa … Thầy cô vẫn luôn yêu thương các em.
Xin trân trọng kính chào.



Thứ Sáu, 14 tháng 6, 2019

PHÁT BIỂU TRI ÂN - 12A6, NGUYỄN QUẾ TRÂN - 2019





Kính thưa quý vị đại biểu, Kính thưa quý thầy cô giáo,
Kính thưa các bậc cha mẹ, cùng các bạn học sinh thân mến!
Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn - Chín mươi ngày qua chứa chan tình thương. Nhưng đó là cảm giác buồn man mác của những mùa hè trước, còn mùa hè năm nay sao mà lưu luyến, bồi hồi, lo lắng quá phải không các bạn? Nhành phượng thắm vẫn thắm đỏ sân trường nhưng sao lòng người nao nao, hàng ghế đá xanh tàng cây góc sân trường, hành lang ấy xa dần xa với chúng mình rồi các bạn ơi. Ngôi nhà THPT Nguyễn Trãi thân yêu đã gắn bó với tà áo trắng chúng mình ba năm nay, chất chứa những ước mơ hồng mà giờ đây chúng ta sắp nói lời chia xa. Những gương mặt thân quen của thầy cô đã trở thành người cha, người mẹ, người anh, người chị của chúng mình ngày hai buổi đến trường gặp gỡ, giờ đây sắp phải chia tay. Những bạn bè thân thương có những lúc giận hờn, có những lúc cùng nhau tình nghịch, …ôi tất cả sẽ trở thành kỉ niệm, sẽ là nỗi vấn vương sau buổi tan trường này.
Trong khoảnh khắc lưu luyến này, các bạn khắc ghi trong lòng điều gì nhất?  Bao yêu thương trong chúng ta đang ùa về phải không các bạn? Công ơn của thầy cô tựa như sông dài, trời rộng. Chúng ta có khoảnh khắc tràn đầy cảm xúc yêu thương ngày hôm nay, đã có công sức của thầy cô. Bởi thầy cô như một vị thiên sứ đem đến cho chúng ta cảm xúc biết vui, biết buồn trước những hoàn cảnh khác nhau. Những câu chuyện kể của thầy cô chứa đựng những bài học sâu sắc để chúng em làm hành trang bước vào đời. Chân trời kiến thức mà chúng em có được phải đánh đổi biết bao vất vả, nhọc nhằn của người thầy người cô. Nhưng thầy cô chưa bao giờ than vãn. Chỉ có chúng em làm thầy cô phải buồn, phải trằn trọc trong đêm thâu.
Có ai dám chắc chắn rằng trong những lần rầy la của thầy cô không có tình thương trong đó, có ai dám nói rằng những lời phê trong sổ đầu bài của thầy cô không mong mỏi học sinh mình thay đổi theo hướng tốt hơn, có ai dám nghĩ rằng những điểm kém của chúng ta không có nỗi xót xa của thầy cô?
Chúng em chỉ biết đòi hỏi cho bản thân chứ chưa một lần nghĩ đến tâm trạng của thầy cô. Có bạn không ngoan, thầy cô khuyên bảo. Có bạn không siêng năng, thầy cô vận động. Có bạn khó khăn, thầy cô tìm hiểu giúp đỡ. Có bạn vô lễ, thầy cô vẫn tha thứ.
Nhân dịp đánh dấu bước ngoặt trưởng thành của chúng em, tại buổi lễ này, chúng em xin cúi đầu xin lỗi quý thầy cô, mong thầy cô rộng lòng tha thứ, dẫu biết rằng thầy cô đã tha thứ cho chúng em từ lâu. Chúng em sẽ chuộc lỗi bằng cách cố gắng học tập trong thời gian ngắn ngủi còn lại để mang về kết quả thật tốt trong kì thi sắp tới. Các bạn hãy hứa đậu tốt nghiệp 100% để thầy cô hạnh phúc nhìn thấy nỗi nhọc nhằn của thầy cô được đền đáp các bạn nhé!
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ - Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha. Kính thưa những người cha, người mẹ! Chúng con nhớ mãi những ngày tháng qua, nhớ hoài tuổi thơ bên Cha mẹ, gian khổ ngày đêm Cha mẹ chăm lo cho chúng con, mong muốn chúng con được lớn khôn nên người. Cha mẹ suốt đời vì chúng con gian nan, hy sinh cả cuộc đời cho đàn con mà chưa hé lời than vãn. Cha mẹ sợ con thua thiệt bè bạn nên cha mẹ quầng quật làm việc để kiếm tiền lo cho chúng con. Cha mẹ sợ con sau này phải vất vả kiếm sống như cha mẹ, nhưng chúng con không hiểu những lời la rầy của cha mẹ. Chúng con cảm thấy buồn và áp lực thì giờ đây chúng con biết đó là tình yêu thương cha mẹ dành cho con. Ân tình của cha mẹ đậm sâu như vầng Thái Dương, ngọt ngào như dòng nước tuôn đầu nguồn. Chúng con xin nghe theo lời dạy của cha mẹ, để không bao giờ làm cha mẹ buồn đâu ạ. Xin cha mẹ hãy yên lòng, chúng con xa rời vòng tay yêu thương của cha mẹ sẽ cố gắng thành nhân, đền đáp niềm mong mỏi của cha mẹ. Nhưng trước tiên, chúng con sẽ lau khô mồ hôi cha mẹ bằng kết quả thi thật tốt trong kì thi sắp tới.  
Các bạn ơi. Rồi ngày mai đây, mỗi người đi mỗi ngã, mỗi người mỗi công việc. Dù ở phương trời nào xin hãy nhớ rằng nơi đây – ngôi trường THPT Nguyễn Trãi mến yêu đã cho ta kỉ niệm đẹp tuổi học trò. Hãy tìm về nhau khi có thể các bạn nhé. Tất cả những buồn vui, giận hờn đã đi vào kí ức trở thành hoài niệm đáng nhớ mỗi khi nghĩ về nơi đây. Chúc các bạn lớp 12a6 nói riêng, toàn thể các bạn khối 12 niên khóa 2016-2019 có sức khỏe thật tốt, một mùa thi thật thành công và gặp nhiều may mắn.
Em - Nguyễn Quế Trân - chân thành cám ơn tất cả mọi người.

PHÁT BIỂU TRI ÂN - TRẦN THỊ HOÀI AN 12A8 (2019)



Kính thưa quý thầy cô. Kính thưa quý phụ huynh !
Hôm nay em rất vinh dự được đại diện cho 480 bạn, khóa 51 trường trung học phổ thông Nguyễn Trãi bày tỏ những cảm xúc tại buổi lễ trưởng thành và tri ân năm học 2018-2019, một khoảnh khắc đặc biệt thiêng liêng trong cuộc đời học sinh.
Các bạn học sinh niên khóa 2016 – 2019 thân mến! Mới ngày nào chúng ta vỡ òa hạnh phúc khi bước qua được cánh cổng trường Nguyễn Trãi trong niềm tự hào của ba mẹ. Ngày ấy chói chang nắng mà lòng chúng ta dịu mát sắc xanh của những hàng cây nơi mái trường mơ ước. Và rồi những bước chân ngỡ ngàng, những ánh mắt lạ lẫm, cả những lo lắng băn khoăn thuở ban đầu dần biến nhờ sự sẻ chia, yêu thương của thầy cô…
Quãng thời gian ba năm trôi nhanh như một cơn gió. Mải mê với những con chữ, những bài toán, bất giác chúng em giật mình trước sắc đỏ của hoa phượng đang rực sáng một khoảng trời. Một mùa hè nữa lại đến... Những chú ve vẫn vang lên khúc nhạc ngày nào, những bạn bè đang đùa vui bên nhau sau 1 năm học đã qua... Mọi thứ vẫn như vậy vẫn như 11 mùa hè trước đó, chỉ có lòng chúng em khác lạ. Mùa hè năm nay sao lại nhớ thương, lưu luyến, bâng khuâng đến vậy? Biết bao lời chúng em muốn nói nhưng chẳng biết phải bắt đầu từ đâu.
Thầy cô kính yêu của chúng em ơi! Thầy cô là những người lái đò tận tâm, tận tụy đưa từng chuyến đò cập bến mà không biết mệt mỏi. Học sinh chúng em là những người khách đến được bến bờ thì cất bước rời đi, để lại sau lưng là người lái đò với bao sự hi sinh thầm lặng. Làm sao quên được những tháng ngày thầy trò cùng miệt mài bên trang sách, những buổi học giữa ngày hè oi ả và cả những ngày đông trở lạnh. Thầy cô không quản nắng mưa ngày ngày vẫn mang kiến thức đến cho chúng em. Thầy cô không chỉ đơn thuần truyền kiến thức chuyên môn cho chúng em mà đó còn là những bài học làm người, cách đối nhân xử thế. Làm sao chúng em quên được từng giọt mồ hôi trên vầng trán của thầy khi say sưa tiếp giảng... Và nhiều lắm hình ảnh đẹp của thầy cô…Chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy cô, người vừa là thầy vừa là bạn chia sẻ những điều trăn trở của chúng em một cách chân tình tiếp thêm cho chúng em sức mạnh, nghị lực.
Chúng em xin lỗi thầy cô rất nhiều ạ, vì có lúc chúng em lười biếng làm thầy cô lo lắng không yên. Chúng em xin lỗi vì đã làm thầy cô đau đầu với những trò tinh nghịch của tuổi học trò. Dù là vậy thầy cô vẫn bao dung và luôn quan tâm đến chúng em.
Kính thưa các bậc cha mẹ của chúng con!
Trong giây phút này, chúng con xin gửi lời cảm ơn đến ba mẹ - những người đã cho chúng con biết đến thế giới này. Khoảnh khắc con có tiếng khóc chào đời là lúc ba mẹ nở nụ cười tươi nhất trên môi. Rồi trong suốt 18 năm qua, để giữ nụ cười trên gương mặt của con, ba mẹ đã giấu đi bao nhiêu là mồ hôi và nước mắt.
Vậy mà, Chúng con vẫn là những đứa trẻ không hoàn mỹ, nhiều lần cãi lời ba mẹ, nhiều lần làm ba mẹ buồn, làm ba mẹ rơi nước mắt, nhưng trong mắt ba mẹ con vẫn là bảo bối. Tình cảm cha mẹ dành cho con cái là tình cảm lớn lao nhất, tuyệt vời nhất trên thế giới này. Chúng con cảm ơn ba mẹ đã luôn tha thứ cho những lỗi lầm, những bồng bột tuổi trẻ của chúng con. Ba mẹ cho chúng con một gia bình yên và là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất. "Chúng con yêu ba mẹ lắm", câu nói mà khi còn bé còn rất dễ dàng nói ra, nhưng khi trưởng thành chúng con chưa từng nhắc lại. Hôm nay, chúng con sẽ nói: “Chúng con yêu ba mẹ lắm, ba mẹ ơi”.
Các bạn K51 thân mến!
Chỉ vài giờ nữa thôi, sau buổi lễ trưởng thành và tri ân lắng đọng này chúng ta chính thức trở thành "cựu học sinh" của ngôi trường Nguyễn Trãi thân yêu. Phải trả lại nơi đây phòng học, hành lang, ghế đá... Cảnh vật vẫn còn đấy, lớp học vẫn còn đây, thầy cô vẫn đứng trên bục giảng nhưng học sinh không còn là chúng ta nữa... Tất cả chỉ còn là hoài niệm thương nhớ xa xôi. Rồi mai đây, khi bước chân ra khỏi mái trường, mỗi chúng ta sẽ đến một chân trời mới, nhưng hãy trao nhau những lời hứa hẹn để sau này gặp lại, ngồi cùng nhau ôn lại những câu chuyện khi xưa, những giận hờn vu vơ, những tình cảm trong sáng của tuổi học trò. Cảm ơn vì chúng ta đã được gặp nhau và trở thành thanh xuân của nhau các bạn nhé!
Một lần nữa chúng em gửi lời cảm ơn đến thầy cô, ba mẹ - những người đã luôn sát cánh truyền cho ta niềm tin để chinh phục những thử thách trong thời gian qua và sắp tới.
 Xin tạm biệt thầy cô, tạm biệt mái trường thân yêu, chúng con hứa sẽ luôn là người tử tế, nhân văn và ngày càng hoàn thiện bản thân hơn. Chúng con hứa sẽ mang về kết quả tốt nhất trong kì thi trọng đại sắp tới để không phụ lòng mong mỏi của thầy cô, ba mẹ. Và cuối cùng xin chúc k51 có một kì thi rực rỡ như những cánh phượng trường ta, bạn và tôi cùng nhau cố gắng bạn nhé.
Em xin chân thành cám ơn tất cả mọi người.

CHI TIẾT LÁ NGÓN TRONG "VỢ CHỒNG A PHỦ" THEO HƯỚNG 2019


          Tô Hoài là một người con đồng bằng nhưng có vốn hiểu biết phong phú về phong tục tập quán của nhiều dân tộc thiểu số vùng núi cao Tây Bắc. Năm 1952, trong chuyến đi dài tám tháng sống cùng đồng bào Tây Bắc, ông đã cho ra tập “Truyện Tây Bắc”, đặc sắc nhất là tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Trong truyện, nhà văn Tô Hoài ba lần nhắc chi tiết lá ngón. Quỳ lạy cha xong, nghe cha nói, Mị “bưng mặt khóc…ném nắm lá ngón xuống đất, nắm lá ngón Mị đã tìm hái trong rừng”. “Lần lần mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa.  Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”. Trong đêm tình mùa xuân, “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy ứa nước mắt ra”. Hình ảnh “lá ngón” trở thành một trong những chi tiết nghệ thuật đặc sắc gắn với cuộc đời của Mị, mang nhiều tầng ý nghĩa và để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm tưởng độc giả.
           Trong truyện, nhờ chi tiết mà cốt truyện được triển khai và phát triển đầy đặn, thông qua chi tiết mà cảnh trí, tình huống, tính cách, tâm trạng, hình dáng, số phận của nhân vật được khắc họa và bộc lộ đầy đủ. Cũng như nhãn tự trong một bài thơ, chi tiết nghệ thuạt có vị trí nghệ thuật vô cùng quan trọng đối với tác phẩm văn xuôi, nó có thể thâu tóm linh hồn của tác phẩm. Hình ảnh “lá ngón” xuất hiện ba lần trong tác phẩm và chỉ gắn liền với nhân vật Mị – người con gái miền cao lương thiện, xinh đẹp, tài hoa nhưng cuộc đời nhiều bất hạnh.
             Đầu tiên, Mị xuất hiện với hình ảnh mở đầu u ám: “Ai ở xa về…có một cô con gái. Lúc nào cũng vậy,…mặt buồn rười rượi”. Đó cũng chính là phong cách của Tô Hoài: Đi thẳng vào vấn đề, nêu ngay nhân vật. Sự xuất hiện ủ dột báo hiệu một thực tại không tươi sáng. Sự hiện diện song song giưx “cô gái – tàu ngựa – tảng đá” cho thấy sự ngang tầm giữa các chủ thể: “người và súc vật, súc vật và vô tri”. Hay đó cũng chính là ngầm ý của tác giả muốn nói đến cái xã hội đương thời. Cái thực tại xám xịt này là hệ luỵ của chế độ thực dân phong kiến thối tha, là kết cục bi thương của con người lành tính. Mị – một cô gái miền cao đang tràn bung sức trẻ – ngay trong đêm tình hội xuân nồng nàn thì cuộc đời màu hồng chấm dứt. Cô bị trói gô như súc nô, bắt về nhà thống lí Pá Tra “cũng trình ma” như một món hàng. Người ta làm gì cuộc đời cô, thực sự lúc đó cô không biết, mãi cho đến lúc A Sử đứng trước mặt bố cô tuyên bố đã cúng trình ma, thôi thì cô đã là người nhà thống lí mất rồi! Một cú đánh ngã tự do, một cái rơi thật sự thẳng. Mị đi từ cuộc đời đẹp như trong tranh xuống hố sâu của địa ngục – nơi mà kẻ khác sống bằng âm thanh của tiếng than và hít thở hhơi mùi máu, mà mỗi bước đi là một nỗi tủi nhụcđến tột cùng. Mị sôngs không bằng chết, sống như một xác người trong kiếp cầm súc và rồi “có áp bức có đấu tranh”. Cô tìm về cha già, tay cầm nắm lá ngón. “Lá ngón” xuất hiện lần đầu tiên như một lối thoát đen. Đây là lối thoát ngắn và hữu hiệu nhất. Nhưng lại là lối thoát cho những ai muốn chấm dứt hiện tại nghiệt ngã chứ không phải lối thoát cho người muốn sang trang mới. Rõ ràng, đây là sự phản kháng quyết liệt nhưng vô vọng – một hình thức phản kháng bị động. Và sự xuất hiện của “lá ngón” lúc này mang tầm ý nghĩa tố cáo cao độ: Sự dã man của xã hội ép buộc con người lương thiện đi tìm cái chết. Nó - lá ngón, cũng là hiện thân cho nỗi thống khổ của nhân dân, cho những tích tụ đắng cay, đầy đau đớn và uất hận. Cô ném phịch xuống đất nắm lá ngón mình tự tìm hái trong rừng như một sự chuẩn bị sẵn sàng trước đó, ném trong nước mắt. Tự mình tìm đến lá ngón – độc dược của rừng xanh – đã là sự can đảm của người con gái. Nhưng ném đi độc dược để tiếp tục sống khổ lại càng can đảm hơn. Đối với Mị, thà chết đi hơn sống nhục, nhưng rồi lại thà sống nhục còn hơn bất hiếu. Chính chữ hiếu là bản lĩnh cao đẹp nơi người con gái trẻ. Đoc cũng chính là nguyên nhân cốt yếu cho sự can đảm bán mình chuộc cha của Vương Thuý Kiều trong “Đoạn trường tân thanh” của đại thi hào Nguyễn Du. Cả hai người con gái tài năng, sắc diện và nhân phẩm tuyệt vời, điều đó kết cục chung vì chế độ xấu xa mục rữa, những thiên hương vô phúc sinh nhầm thời, những cánh hoa trôi dạt trong bão dữ. “Lá ngón” như vậy, đã mang một tầng ý nghĩa nhân sinh tuy bản thân tượng trưng cho cái chết.
            Ta có thể nhìn thấy sự kiên quyết và chút gì đó vụt sáng trong lòng Mị khi cô tìm đến lá ngón với ý nghĩ đã tìm ra lối thoát. Nhưng đồng thời cũng nhận ra nỗi đớn lòng của cô khi thấy rằng chưa phải lúc và lối thoát ấy một lần nữa tuột khỏi tầm tay. Nhưng rồi cơn đau nào cũng phải qua đi đi sau thời hạn định. Mị trở về, tiếp tục sống cho hết kiếp cùng mạt nhục nhã. Nhiều năm trôi qua, cha già – người thân duy nhất cũng qua đời nhưng cái thôi thúc giải thoát trong lồng ngực son nay đã tắt. Mị không còn nghĩ đến đấu tranh bởi lẽ sống hay chết đối với cô lúc này không quan trọng nữa và đương nhên “lá ngón” cũng chẳng còn lảng vảng trong tâm trí đã ngủ quên.
Đó chính là sự xuất hiện lần thứ hai của “lá ngón” vì ở lần này, “lá ngón” xuất hiện bằng cách ra đi. Lá ngón phai mờ tượng trưng cho sự ham sống đã nguội lạnh. Nỗi ám ảnh về cái chết giờ đây không còn gặm nhấm tâm hồn cho sự tự do của lí trí. Nhưng đối với Mị, đó lại là nỗi đáng sợ! “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Dần thay thế cho “phản kháng” là “chấp nhận chịu đựng”. Một cô gái với bản lĩnh tự hái thuốc độc cho mình nay buông xuôi chấp thuận. Cô buông xuôi không bởi cô chấp thuận, cô đông thuận mà sự thả trôi kia là kết cục của cuộc tự đấu tranh trong đơn độc, dai dẳng cuối cùng kết thúc bằng sự mỏi mệt và tuyệt vọng đổ ập xuống đôi bờ vai yếu ớt. Vậy ra, “lá ngón” kia đang ngầm kêu thay tiếng đồng bào hướng về Cách mạng. Chẳng biết tự bao giờ, Mị quay cuồng vào công việc nhà Pá Tra như một cái máy và cho tới khi trâu ngựa đã về chuồng, cô vẫn còn đứng đó tiếp tục mãi không thôi. Lúc nào cũng vậy, ngồi một mình trong căn buồng tối trông ra lô vuông chẳng biết “của sương hay nắng”, Mị luôn đăm đắm một ánh nhìn. Ánh nhìn ấy vừa khát khao, vừa hồi tưởng. Nếu như xem lỗ vuông nơi căn phòng là vách ngăn giữa lao tù và tự do, thì ít ra mỗi khi nhìn vào đó, Mị vẫn còn chút gì khao khát sống. Còn đối với “lá ngón”, nghĩ đến nó là nghĩ đến cái chết và chỉ khi Mị muốn kết liễu đời mình thì lá ngón lại là hình ảnh mặc định đầu tiên hiện ra.
            Rồi đêm nay, đêm tình mùa xuân lại kéo đến – cái đêm tình tứ lứa đôi ngọt ngào, đêm của những xúc cảm yêu thương được chuẩn bị trước bởi “những chiếc váy hoa phơi trên mõm đá” hay đêm được tượng hình bởi tiếng sáo mê li. Đêm hội mùa xuân vẫn đến và đi như hằng năm vẫn thế. Và năm nay, đến hẹn lại lên, đêm được chờ mong lại đến. Nó đến vẫn với diện mạo xinh tươi và bản chất ngọt ngào. Vẫn rừng xanh đó, vẫn triền núi xưa nhưng người đưa đã khác. Đêm xuân ny vắng bóng má đào. Tiếng sáo cũ vẫn cứ vô tư bay đi cùng gió với mây, đi tìm người tình ngày nào lâu nay vắng bóng. Rồi như trách oán, như không muốn đi, tiếng sáo ấy cứ réo mãi bên tai người con gái như lưu luyến, tần ngần. Như một phép tiên, đôi môi tưởng chừng đã bị phong kín bởi thời gian nay mấp máy điều gì! Gì thế kia? Hỡi ôi bài hát cũ – bài hát thiết tha dạo cùng khúc nhạc rừng vàng. Hình ảnh ấy ôi thật xót xa. Người con gái làm say đắm biết bao chàng trai, bông hoa của núi rừng hùng vĩ ngày nào biến mất đi trong đêm oan nghiệt. Để giờ đây chỉ còn tiếng hát nhẩm ngày xưa. Mị đang hát, đang cố hát để kéo về những kí ức xúc cảm vàng son. Sau không biết bao ngày sống kiếp nô lệ, Mị vẫn nhớ từng khúc nhạc từng lời ca. Chứng tỏ trong cô, vàng son không khép. Quá khứ và thực tại là hai đỉnh trái chiều và sống về quá khứ giữa thực tại tài nhẫn, Mị đang khao khát vô cùng, con tim cô vẫn còn thổn thức. Kí ức kéo về tiếp theo cho Mị lòng can đảm, lòng can đảm tồn tại khiến Mị muốn sống về kí ức và cô tìm đến rượu để tiếp tục lối đi trái chiều với thời gian. Người ta uống rượu thì say, còn Mị càng uống càng tỉnh. Mị tỉnh bởi Mị nhớ lại mình ngày xưa và đem so với mình hiện tại như chợt giật mình cho những gì bấy lâu xảy ra với bản thân. Mị tỉnh bởi Mị nhớ lại những đối xử dã man của những kẻ đón mạt ấy dành cho cô. Rồi cái ý thức cá nhân dâng lên mạnh mẽ mà một khi ý thức ấy đỉnh điểm thì Mị lại càng không thể chấp nhận nhục nhã đớn đau trong cái cảnh “sống không ra người” này đây. Sao Mị có thể?! Giải thoát! Tự do! Mị không thể tự do thể xác và… cô sẽ tự do tâm hồn, và … lá ngón một lần nữa xuất hiện.
Ai cần cho ai và ai phụ thuộc ai?! Khi Mị muốn giải thoát, Mị tìm tới lá ngón hay là khi Mị muốn chết, lá ngón lại hiện về? “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Càng nhớ càng buồn, càng buồn càng khổ. Thà chết đi cho xong chứ nhớ lại làm chi khi mình bất khả kháng! Như vậy, lá ngón lại lần nữa xuất hiện với tầng ý nghĩa giải thoát, giải thoát khỏi địa ngục trần gian. Địa ngục trần gian ở đây không đơn giản là nỗi đau xác thịt và linh hồn khi bị hành hạ, mà địa ngục thật sự khi phải sống trong lầm than với những hồi ức ngọt ngào cứ hiện hữu.Và “lá ngón” lại nâng tầm ý nghĩa lên một nấc nữa, đó là “sự tự ý thức”. Đánh dấu sự trở lại của ý thức sống, đánh dấu sự thức tỉnh của một tâm hồn tưởng chừng như đã “chết đi trong cõi sống”. Có lẽ lần xuất hiện này của lá ngón là quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất. Bởi lẽ, Mị nghĩ đến lá ngón với sự cương quyết tột cùng, trạng thái phẫn nộ và ý thức rõ nhất vì giờ đây, cô không còn cái gì để hối tiếc, để luyến lưu. Tuổi xuân đầu đời – thời gian đẹp nhất – nay đã hết, cha già – nguồn yêu thương vô tận cũng không còn. Lòng Mị nay là cõi chết. Lá ngón đối với nàng không là liều thuốc độc, mà trở thành thứ phương tiện, hình thức, con đường để đi đến một bến bờ khác không còn đớn đau, để phản kháng lại cái xã hội đương thời mạt hạn.
             Mị tìm đến lá ngón là tìm đến cái chết như một sự tự cứu và phản kháng. Ta bắt gặp trong văn học những cảnh ngộ bi thương tương tự: Thuý Kiều trong “Đoạn trường tân thanh” đã tự vẫn, dù không thành, để bảo quản chữ “tiết”, không chấp nhận nhơ nhuốc tấm thân, không thể tiếp tục tồn tại với xã hội bẩn thỉu; Chí Phèo, có lẽ vì là bậc nam nhân nên cái chết của Chí diễ ra có phần chủ động và tác động lớn. Vì anh tự tay đâm chết bá Kiến – tượng trưng cho việc kết thúc cuộc đời dưới đáy xã hội mục ruỗng và tự tay kết liễu đời mình – như thể làm con người đúng nghĩa, dù cái “bắt đầu” đó cũng là dấu chấm hết của anh. Cùng thuộc mô típ nhân vật mang số phận bi đát, những con người đáng quý trọng nhưng “sinh bất phùng thời”, Mị là hình ảnh của đồng bào miền cao Tây Bắc sống kiếp nô cầm trong xã hộ của bọn thực dân phong kiến, cũng như đồng bào miền xuôi hay khắp mọi miền đất nước khi ánh sáng cách mạng chưa kịp soi sáng. Mị cũng có sự tự tôn của mình, nhưng để bảo vệ sự tự tôn ấy, cô đã chọn lá ngón. Và có lẽ, đó là lẽ đương nhiên đối với một cô gái đơn độc có tâm hồn quá sáng trong nhưng vị thế lại quá nhỏ nhoi, nhất là khi ánh sáng cách mạng chưa thể rọi đến Hồng Ngài xa xăm.
              Xuất sắc chấm màu xanh lá ngón vào bức tranh xô bồ của thời cuộc, Tô Hoài đã đưa “lá ngón” từ chỗ độc dược ngàn đời của núi rừng, là cái chết từ thiên nhiên, nay bỗng nhiên lại là sự giải thoát. Lá ngón xuất hiện ba lần với ba tầng ý nghĩa ngày càng sâu sắc hơn, dữ dội hơn. Cái độc của lá ngón vậy ra vẫn còn thua cái độc của xã hội. Lá càng độc là đớn đau đồng bào chịu càng nhiều. Lá ngón trở thành dấu hiệu báo động cho sự khẩn thiết, cầu cứu của đồng bào miền cao đối với Cách mạng còn quá xa và cũng chính là tư tưởng nhân đạo cao đẹp mà tác giả muốn gửi gắm đến chúng ta qua hồn thiêng gió núi của đại ngàn Tây Bắc xa xăm!

ĐỀ THI THỬ 12A3,12A6 VÀ ĐÁP ÁN NĂM 2019


TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI
              LỚP 12A3, 12A6

ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM HỌC 2018 - 2019
MÔN THI: NGỮ VĂN
Thời gian: 120 phút (không kể thời gian giao đề)
(Đề thi có 02 trang)

I/ ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc bài thơ sau và trả lời các câu hỏi:
(1)Tôi chưa từng đi qua chiến tranh
Chưa thấy hết sự hy sinh của bao người ngã xuống
Thuở quê hương còn gồng gánh nỗi đau.

(2)Tôi lớn lên từ rẫy mía, bờ ao
Thả cánh diều bay
Lội đồng hái bông súng trắng
Mẹ nuôi tôi dãi dầu mưa nắng
Lặn lội thân cò quãng vắng đồng xa.

(3)Tôi lớn lên từ những khúc dân ca
Khoan nhặt tiếng đờn kìm
Ngân nga sáo trúc
Đêm Trung thu say sưa nghe bà kể
Chú Cuội một mình ngồi gốc cây đa.

(4)Thời gian qua
Xin cám ơn đất nước
Bom đạn mấy mươi năm vẫn lúa reo, sóng hát
Còn vọng vang với những câu Kiều
Trong từng ngần ấy những thương yêu
Tiếng mẹ ru hời
Điệu hò thánh thót
Mang hình bóng quê hương tôi lớn thành người

(5)Đất nước của tôi ơi!
Vẫn sáng ngời như vầng trăng vành vạnh.
(“Cám ơn đất nước”, Huỳnh Thanh Hồng, https://www.thivien.net)
Câu 1 (0.5 điểm). Chỉ ra những những từ ngữ, hình ảnh miêu tả “hình bóng quê hương” trong đoạn (2), (3) ?
Câu 2 (0.75 điểm). Cũng như những tác giả khác, khi viết về đất nước, nhà thơ Huỳnh Thanh Hồng cũng dựa vào ba phương diện. Anh/chị hãy chỉ ra ba phương diện đó trong đoạn (4) ?
Câu 3 (0,75 điểm). Nhận xét hiệu quả của biện pháp tu từ trong đoạn (5) ?
Câu 4 (1.0 điểm). Theo anh/chị, vì sao tác giả nói “Tôi lớn lên từ những khúc dân ca”?

II/ LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm)
         Từ nội dung ở phần đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về việc giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Câu 2 (5 điểm)
Trong bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ví von vẻ đẹp sông Hương như sau:

Lúc ở thượng nguồn: “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại (…) khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.”

Khi về ngoại vi thành phố Huế: “Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại (…) sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới gặp thành phố tương lai của nó.”

 (Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, tập 1)

Anh/chị hãy phân tích vẻ đẹp hình tượng sông Hương trong những lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật nét tài hoa trong phong cách kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.

……………………………..HẾT………………………………



ĐÁP ÁN
I/ ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1 (0.5 điểm). Chỉ ra những những từ ngữ, hình ảnh miêu tả “hình bóng quê hương” trong đoạn (2), (3) ?
- Đoạn (2): rẫy mía, bờ ao; cánh diều; bông súng trắng, mưa nắng; đồng xa. (nêu đúng 3 từ trở lên: 0,25đ)
- Đoạn (3): khúc dân ca; tiếng đờn kìm; sáo trúc; Trung thu, cây đa. (nêu đúng 3 từ trở lên: 0,25đ)

Câu 2 (0.75 điểm). Cũng như những tác giả khác, khi viết về đất nước, nhà thơ Huỳnh Thanh Hồng cũng dựa vào ba phương diện. Anh/chị hãy chỉ ra ba phương diện đó trong đoạn (4) ?
-           Thời gian: Thời gian qua (0,25)
-           Không gian: lúa reo, sóng hát; (0,25)
-         Văn hóa: những câu Kiều; những thương yêu; tiếng mẹ ru hời; điệu hò thánh thót (0,25)

Câu 3 (0,75 điểm). Nhận xét hiệu quả của biện pháp tu từ trong đoạn (5) ?
-           Biện pháp tu từ so sánh: Đất nước của tôi vẫn sáng ngời như vầng trăng vành vạnh. (0,25)
-           Hiệu quả: Tác giả đã ngợi ca vẻ đẹp những giá trị vật chất và tinh thần về văn hóa và truyền thống của dân tộc(0,25), đồng thời thể hiện lòng tự hào, sự biết ơn sâu sắc bao lớp người đi trước giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp ấy. (0,25)

Câu 4 (1.0 điểm). Theo anh/chị, vì sao tác giả nói “Tôi lớn lên từ những khúc dân ca”?
Tác giả nói “Tôi lớn lên từ những khúc dân ca”. Vì tác giả cũng như bao đứa trẻ thơ khác, từ khi còn nằm trong nôi tác giả được mẹ ru qua những khúc dân ca. Chính những khúc dân ca này đã nuôi dưỡng tình cảm yêu quê hương đất nước, yêu gia đình của tác giả.

PHẦN LÀM VĂN (7.0 điểm).
Câu 1: (2.0 điểm). 

Cũng như các quốc gia khác, Việt nam cũng có bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. (GT)Bản sắc văn hóa là điều cốt lõi mang tính đặc trưng, màu sắc riêng của mỗi một quốc gia, dân tộc; bao gồm những giá trị vật chất và tinh thần được hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước theo cả chiều dài lịch sử. Đó có thể là phong tục tập quán, quan niệm sống, văn hóa nghệ thuật,.... Đối với dân tộc Việt Nam, những giá trị đó luôn bền vững, trường tồn theo thời gian như nền văn minh lúa nước, trống đồng Đông Sơn, tinh thần yêu nước mạnh mẽ, bền bỉ như sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc, tinh thần "tương thân tương ái" giàu giá trị nhân văn, hay truyền thống đạo lí "uống nước nhớ nguồn", "ân nghĩa thủy chung",.... (BL)Bản sắc văn hóa có ý nghĩa vô cùng sâu sắc đối với mỗi một quốc gia, dân tộc. Nó là tài sản vô giá, để gắn kết các dân tộc lại với nhau. Bản sắc VH chính là cái cốt lõi, linh hồn khẳng định sự tồn tại của mỗi một quốc gia, dân tộc. Không chỉ dừng lại ở đó, bản sắc còn là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con người; giúp yêu thích lịch sử dân tộc; am hiểu và tự hào về truyền thống đất nước,…. Trong bức tranh đa dạng và muôn màu sắc VH của các dân tộc trên thế giới, bản sắc chính là một trong những yếu tố làm nên nét riêng của mỗi dân tộc, giúp khu biệt dân tộc này với dân tộc khác. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò vị trí của bản sắc văn hóa dân tộc càng được khẳng định hơn. Những con người Việt Nam đã và đang phát huy bản sắc dân tộc bằng những việc làm tích cực. Mặc dù có sự du nhập và tác động từ văn hóa nước ngoài nhưng không ít bạn trẻ vẫn tìm về với những giá trị truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc như những trò chơi dân gian, những loại hình văn hóa dân gian như ca trù, nhã nhạc cung đình,..., đặc biệt là không ngần ngại quảng bá hình ảnh của Việt Nam ra thế giới. Trong phần thi về trang phục dân tộc, Hoa hậu H'Hen Niê đã tỏa sáng với bộ quốc phục được lấy cảm hứng từ những chiếc bánh mì, mang theo niềm tự hào về thành tựu nông nghiệp của nước ta trên đấu trường nhan sắc quốc tế. Để giữ gìn bản sắc VH dân tộc, chúng ta phê phán những con người quay lưng lại với văn hoá dân tộc, bài xích, xem thường văn hoá cha ông, chạy theo lối sống lai căng, học đòi, sùng ngoại; phản bội lại lịch sử nước nhà;… đề cao những giá trị văn hóa du nhập từ nước ngoài vượt ngưỡng cho phép. Chẳng hạn, có bạn trẻ vô tư sử dụng tiếng nước ngoài xen kẽ vào tiếng Việt ảnh hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt. Những hành động đó tác động xấu đến việc duy trì, phát huy nền văn hóa dân tộc. Muốn giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, các ngành chức năng như Bộ Văn hóa thông tin cần có những chương trình tôn vinh văn hóa dân tộc, hay những trò chơi tìm hiểu nét đẹp văn hóa Việt,… (BH)Đối với bản thân em, em ý thức được việc gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc có vai trò, ý nghĩa lớn đối với dân tộc Việt Nam. Em sẽ ra sức rèn luyện lối sống, có những hành động tích cực phù hợp với những truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc nhằm bảo lưu và phát huy những giá trị riêng đậm đà bản sắc dân tộc. 

Câu 2 (5 điểm)

            HPNT là cây bút chuyên viết kí – là một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của VH ta hiện nay (Nguyên Ngọc) và Huế là quê hương văn học đích thực của ông. Tác phẩm của ông có rất nhiều ánh lửa của tình yêu thiên nhiên đất nước và con người Việt Nam; kết hợp chặt chẽ giữa trí tuệ và trữ tình, nghị luận sắc bén và suy tư nhiều chiều, tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng. Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được tác giả viết tại Huế, vào tháng 1-1981, đăng báo “Văn nghệ”, sau đó đưa vào tập kí cùng tên năm 1986, là món quà tri ân tình nghĩa của HPNT với mảnh đất quê hương xứ Huế. Trong bài bút kí, tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhiều lần ví von vẻ đẹp sông Hương ở thượng nguồn và ở ngoại vi thành phố Huế, từ đó toát lên nét tài hoa độc đáo trong phong cách kí của ông.
           Nếu ta chỉ hiểu sông Hương với nét đẹp dịu dàng thơ mộng thì hẳn ngạc nhiên khi nhà văn khám phá ra những vẻ đẹp lạ lùng, bất ngờ và thú vị. Đó là vẻ đẹp hoang dại và đầy quyến rũ của dòng sông trên thượng nguồn - đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ: “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại (…) khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.”
            Thật độc đáo khi dưới con mắt của tác giả, sông Hương được nhân hóa và so sánh tựa như "Cô gái di-gan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng". Có lẽ đây là phép nhân hóa đầy ẩn ý nhằm gợi lên nét đẹp hoang sơ nhưng hấp dẫn của con sông này. Như vậy có thể thấy được qua ngòi bút phóng khoáng của tác giả, sông Hương vùng thượng nguồn toát lên vẻ đẹp kì bí, hùng vĩ và đầy cá tính. Vẻ đẹp toát ra từ toàn bộ bản năng tự nhiên vốn có của nó. Đây là phần hồn sâu thẳm của dòng sông.
           Ở góc nhìn khác, sông Hương ở thượng nguồn còn được Hoàng Phủ Ngọc Tường ví như người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Với biện pháp nhân hóa này, người con xứ Huế đã xem sông Hương như một đấng sáng tạo góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên, xứ sở. Đây là một phát hiện độc đáo về sông Hương chỉ có thể có ở một người gắn bó và am tường về mảnh đất cố đô. Tác giả đặt ra giả thiết: nếu chỉ nhìn gương mặt “kinh thành” sang trọng, quý phái, sắc đẹp dịu dàng của người mẹ phù sa thì không thể hiểu hết bản chất của sông Hương. Vì thế, tác giả đã ngược dòng lên thượng nguồn để khám phá nửa phần đời của dòng sông. Thật là một phát hiện mới mẻ, thú vị!
             Tác giả còn khảo cứu dòng sông trong cuộc thủy trình, trong cái nhìn của người nghệ sĩ, dưới con mắt của tình yêu. Từ góc nhìn này, tác giả đã có những liên tưởng bất ngờ thú vị khi SH về ngoại vi thành phố Huế: “Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại (…) sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới gặp thành phố tương lai của nó.”. Trước khi về với Huế, sông Hương như một người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức nàng. Chi tiết tưởng tượng thơ mộng này làm cho sông Hương như một người tình thủy chung trong một câu chuyện tình lãng mạn nhuốm màu cổ tích, gợi nhớ câu chuyện dân gian “Công chúa ngủ trong rừng”.
           Cuộc hành trình về với Huế là một cuộc tìm kiếm có ý thức. Khi ra khỏi vùng núi, sông Hương như một nàng tiên được đánh thức, như bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân: “Chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột”, “uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Về đến đồng bằng, sông Hương vẫn còn đi trong dư vang của Trường Sơn và chuyển dòng liên tục: có những khúc quanh đột ngột, có những đường cong mềm mại. Cuộc thủy trình chẳng khác nào bước chân của người con gái khao khát tình yêu, đi theo tiếng gọi của trái tim. Cuộc thủy trình về với đồng bằng được tác giả vẽ nên như một bức tranh có thời gian, không gian, đường nét, màu sắc với cách phối cảnh tài hoa làm cho bức tranh thêm kì thú hài hòa.
            Sông Hương được cảm nhận qua tâm hồn của một người con gắn bó với Huế, yêu Huế say đắm, một con người có vốn sống, vốn văn hóa phong phú, vốn ngôn ngữ dồi dào, tài hoa lịch lãm; những ví von, so sánh nhân hóa giàu chất thơ, chất nhạc, chất họa và chất suy cảm, hướng nội đã làm nên nét thanh tao rất riêng trong chất kí HPNT. Khi miêu tả vẻ đẹp của dòng sông, tác giả đã quan sát ở nhiều điểm nhìn khác nhau: theo cuộc thủy trình trong mối quan hệ với thiên nhiên; được nhìn từ trên cao, từ trên sông và nhìn dòng sông trong không gian văn hóa đặc thù của xứ Huế. Thể loại tùy bút tự do, phóng khoáng đã bộc lộ rõ cái tôi tài hoa của nhà văn. Giọng điệu chuyển đổi linh hoạt, khi thì tự sự, khi tưởng tượng bay bổng, khi im lặng đầy xúc động. Tác giả vừa kể, vừa tả, vừa bình, vừa bộc lộ quan điểm riêng về vẻ đẹp sông Hương và pha chút khảo cứu về dòng sông. Nét riêng trong lối viết kí của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường là ông biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú: triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí…Lối hành văn trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường thường hướng nội, súc tích, mê đắm và rất mực tài hoa.
Tóm lại, Sông Hương là dòng sông của xứ Huế và đã trở thành hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mĩ. Dòng sông đã gợi cảm hứng cho nhà văn, là một cơ hội để HPNT thể hiện cái tài của mình trên nhiều phương diện: cái nhìn đầy tính phát hiện, am hiểu sâu sắc và sự hiểu biết về nhiều ngành khoa học, nghệ thuật, lối viết văn tinh tế…Và trên hết là tấm lòng yêu quê hương tha thiết và niềm tự hào về vẻ đẹp xứ Huế. Bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài văn xuôi đặc sắc đầy chất thơ về dòng sông Hương. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khiến dòng sông đẹp hơn như một bức họa đồ. Điều đó làm dấy lên trong lòng người đọc những khao khát được đến với sông Hương-một công trình nghệ thuật mà tạo hóa đã ban tặng cho con người. 


Thứ Bảy, 8 tháng 6, 2019

ĐỀ THI BÀI "ĐẤT NƯỚC" THEO HƯỚNG 2019


(1)Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

(2)Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
                                                                                    (Đất Nước – NKĐ)
PT những đoạn thơ trên, từ đó hãy nhận xét về những suy nghĩ và cảm nhận mới mẻ của NKĐ về ĐN.
 BÀI LÀM
Nguyễn Khoa Điềm sinh 1943, trong một gia đình tri thức có truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng ở tỉnh TTH. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nt trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Thơ ông lôi cuốn người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư, mang màu sắc trữ tình-chính luận. Tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo ấy là đoạn trích “ĐN”. “Đất Nước” trích phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”- tác phẩm được viết vào năm 1971, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra khốc liệt. Bản trường ca ra đời nhằm thức tỉnh thế hệ trẻ miền Nam xuống đường chống Mĩ cứu nước. Tuy nhiên, hình ảnh Đất Nước trong thơ ông không chỉ có đau thương mất mát hay chỉ có cảnh sơn hà hùng vĩ mà Đất Nước hiện lên trọn vẹn qua những suy nghĩ và cảm nhận hết sức mới mẻ. Cụ thể qua những đoạn thơ sau: (thơ)

Khái quát: Đất Nước vốn là một đề tài lớn và xuyên suốt trong chiều dài lịch sử VHVN. Điều đó có thể giải thích từ lịch sử đấu tranh sinh tồn của dân tộc phải trải qua hàng ngàn năm liên tục chiến đấu gìn giữ đất nước, cho nên người Việt Nam luôn luôn gắn bó sâu nặng với đất nước. Trong văn học thời phong kiến có những kiệt tác viết về đất nước như bài thơ thần của Lí Thường Kiệt, “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi… Từ sau Cách mạng Tháng Tám, đề tài này xuất hiện trong sáng tác của Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Duy, Thanh Thảo,.... Nhưng đoạn trích “Đất Nước” nói riêng, trường ca “Mặt đường khát vọng” nói chung, vẫn chiếm được cảm tình của người đọc, bởi nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho đề tài này những mới mẻ, không giống bất kì cây bút nào.
PT đoạn 1: Khác với các tác giả khác, Nguyễn Khoa Điềm không định nghĩa Đất Nước ở phương diện lịch sử, hay ở khía cạnh chính sử mà ông tìm hiểu Đất Nước ở những cái thân quen, gần gũi tưởng chừng như nó kết tinh, hóa thân ở ngay trong cuộc sống của mỗi chúng ta:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Câu thơ mở đầu được tác giả viết ra thật bình dị như một lời nói thường nhật của bất kì một người nào khi được hỏi “ĐN có từ bao giờ?”. Câu thơ như một lời trò chuyện, một chân lý vốn có, một sự thật hiển nhiên: “Đất Nước đã có rồi”. Nghĩa là khi vừa mới lọt lòng thì Đất Nước đã tồn tại từ rất lâu trước đó. Điều đó cũng có nghĩa Đất Nước là những gì vô cùng gần gũi, binh dị, gắn bó thật sâu nặng với mỗi con người, mỗi gia đình. Tác giả dùng từ “ta” chứ không dùng từ “tôi” nhằm khẳng định Đất Nước không của riêng ai, mà là của tất cả mọi người. Câu thơ mở đầu đã hoàn thành được sứ mệnh của nó, thể hiện được tư tưởng tác phẩm: “Đất Nước của Nhân Dân”.
Vì Đất Nước của Nhân Dân nên khi truy nguyên về nguồn cội, Nguyễn Khoa Điềm tìm trong dã sử, trong những câu chuyện cổ tích mẹ kể hàng ngày:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Với NKĐ, Đất Nước thật gần gũi, hiện diện trong những câu chuyện cổ tích thường mở đầu bằng “ngày xửa ngày xưa”. Câu thơ khiến ta nhớ đến hình ảnh người bà, người mẹ thường hay kể chuyện cho con cháu nghe, là hình ảnh cô Tấm bị mẹ con Cám bắt nạt, là hình ảnh nàng tiên bước ra từ quả thị…. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” thật quen thuộc và gần gũi với con người Việt Nam. Bởi, mỗi câu chuyện là mỗi bài học đạo lí dạy ta biết ở hiền gặp lành, biết sống thủy chung,… Tác giả không dùng từ ngữ, hình ảnh hoa mĩ tráng lệ mang tính biểu tượng để thể hiện Đất Nước mà dùng cách nói giản dị, tự nhiên, dễ hiểu, dễ thấm vào lòng người. Tác giả giúp ta tìm hiểu Đất Nước có từ nền văn hóa dân gian cha ông ta để lại.
Tác giả cũng cảm nhận Đất Nước gắn với phong tục tập quán, hình thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
Đó là tục ăn trầu, là miếng trầu giao duyên, miếng trầu nên nghĩa nên tình để thành một nét văn hóa đẹp của dân tộc. Miếng trầu gợi nhớ đến truyện cổ tích “Trầu cau” thắm đượm tình anh em, tình vợ chồng; là câu thành ngữ đã thành câu nói cửa miệng của dân gian: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”… Hình ảnh trầu cau có mặt trong những lễ cưới hỏi để trở thành một nét văn hóa của người dân VN. Và cũng trong những truyền thuyết ấy, xuất hiện hình ảnh người anh hùng làng Gióng, nhổ tre bên đường đánh đuổi giặc Ân:
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc”
Bốn ngàn năm qua, Đất Nước Việt Nam phải chịu biết bao trận chiến xâm lược của chế độ phong kiến phương Bắc, và lúc bấy giờ là thế lực cướp nước của tư bản phương Tây. Có thể nói, Đất Nước chúng ta sống trong chiến tranh và trưởng thành trong những cuộc chiến tranh vê quốc vĩ đại. Hình ảnh “cây tre” còn gợi lên hình ảnh của con người Việt Nam, cần cù, siêng năng, chịu thương, chịu khó: “Tre xung phong vào xe tăng đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre anh hùng chiến đấu, tre anh hùng đánh giặc”. Như vậy, từ khi có ĐN, ông cha ta đã có ý thức bảo vệ ĐN, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và để lại cho đời sau.

PT đoạn 2: Với cách tiếp cận ĐN như thế, không khó hiểu khi NKĐ chọn cho mình giọng điệu tâm tình, thủ thỉ, lối trò chuyện thân mật, tự nhiên. Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình, nhà thơ đã diễn giải khái niệm Đất Nước theo kiểu riêng của mình:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Tác gỉa đã khai thác cách cấu tạo từ tiếng Việt- từ ghép “ĐN” để đi sâu vào từng thành tố làm nên ĐN. Tác gỉa đã tách “ĐN” thành “Đất” và “Nước” rồi hợp nhất trong một chỉnh thể thống nhất hài hoà. Cứ thế tách rồi hợp, hợp rồi tách, ĐN hiện ra vừa cụ thể, riêng tư, gần gũi, nhỏ bé; vừa lớn lao cao cả, thiêng liêng. Thật thú vị khi tách riêng Đất gắn với anh, Nước gắn với em, khi đôi ta hòa hợp thì thành Đất Nước. Chia tách rồi hợp lại, nhà thơ xoay trở nhiều mặt, nhiều chiều để khám phá Đất Nước sâu sắc hơn. Trong văn học từng có cách nhìn Đất Nước trong không gian mênh mông:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
(Nguyễn Đình Thi)
 Đến trường ca “Mặt đường khát vọng”, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa Đất Nước trở về với không gian sinh hoạt thân thương, dung dị, đời thường: Đất là nơi anh đến trường- Nước là nơi em tắm. Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền. Cùng với thời gian lớn lên, Đất Nước trở thành nơi anh và em hò hẹn. Không những thế, Đất Nước còn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu. Hình ảnh “chiếc khăn” gợi cho người đọc nhớ đến bài ca dao: “Khăn thương nhớ ai…” chất chứa bao tình yêu thương, nhớ mong sâu nặng của những người yêu nhau. Đất và Nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hoà hợp khi anh và em kết lại thành “ta”.
Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. Hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi” mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả. Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại trở về.
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Nhận xét: Như vậy, trong những cảm nhận ban đầu của NKĐ, khởi nguyên của Đất Nước chưa phải là những trang sử hào hùng với những chiến tích của thuở hồng hoang vĩ đại mà là những huyền thoại, những truyền thuyết, những phong tục tập quán riêng biệt đã có ngàn đời nay. Lịch sử lâu đời của ĐN không được cắt nghĩa bằng sự nối tiếp các triều đại hay các mốc son lịch sử chói lọi mà được nhìn từ trong chiều sâu văn hoá và văn học dân gian. Còn trong cách nhìn về không gian ĐN, NKĐ nghiêng nhiều hơn về không gian riêng tư, không gian đời thường rất đổi nhỏ bé, bình dị, gần gũi. Đây chính là điểm mới trong cách nhìn về nguồn cội và cách định nghĩa về ĐN của NKĐ. Nhà thơ sử dụng tài tình và hiệu quả chất liệu văn học, văn hóa dân gian gợi dậy trong tâm thức người đọc cả một bề dày và chiều sâu văn hóa nghìn đời của dân tộc. 
.......
Tóm lại, “Đất Nước” được coi là phần hay nhất của trường ca “Mặt đường khát vọng” và tiêu biểu cho suy nghĩ mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Qua đó, tác giả khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tự hào về nền văn hóa đậm đà bản sắc Việt Nam trong mỗi người đọc. Đoạn trích còn tạo nên một tượng đài về Tổ quốc Việt Nam bằng thơ, tượng đài ấy vĩnh hằng qua thời gian, năm tháng và trong lòng mỗi người dân Việt Nam yêu đất nước mình.



Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2019

NHÂN VẬT ÔNG LÁI ĐÒ_LIÊN HỆ HUẤN CAO

Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lái đò trong cảnh vượt thác (Người lái đò sông
Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016). Từ đó liên hệ
với nhân vật Huấn Cao trong cảnh cho chữ (Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 11,
Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016) để nhận xét quan niệm của nhà văn về vẻ đẹp
con người.

ĐÁP ÁN
I. Mở bài: 
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, một cây bút tài hoa uyên
bác, một bậc thầy trong sáng tạo và sử dụng tiếng Việt. Có thể nói Nguyễn Tuân là định
nghĩa về người nghệ sĩ, đối với ông văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật
trước hết phải là nghệ thuật và đã là nghệ thuật phải có phong cách độc đáo. Nét nổi bật
trong phong cách của ông là luôn nhìn sự vật ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ, nhìn con
người ở phẩm chất nghệ sĩ và tài hoa. Điều này được thể hiện rõ nét qua hình tượng người
lái đò trong cảnh vượt thác ở tùy bút Người lái đò sông Đà trích trong tập Sông Đà (1960).
Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến
đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi để tìm “thứ vàng mười đã qua
thử lửa”.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu chân dung, lai lịch
- Không có tên tuổi cụ thể: hình tượng có tính khái quát về người lao động
- Ngoại hình: khỏe mạnh mang dáng dấp của người lao động trên sông nước
Đọc bài kí, ta thấy Nguyễn Tuân không đặt tên cụ thể cho người lái đò, không có tiểu sử
đó là một chân dung vô danh. Điều đó dễ gợi lên tính chất khái quát của hình tượng người
lái đò. Ông lái đò chỉ là một trong vô số những người lao động bình dị trên sông nước.
Ngoại hình ông lái đò cũng thật đặc biệt: tay dài lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng
khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng, giọng nói ồm ồm như tiếng nước
trên mặt ghềnh... Đúng là con người sinh ra từ dòng nước sông Đà, vóc dáng, hình hài
khỏe mạnh của ông đã in đậm dấu ấn của một người làm nghề sông nước.
2. Vẻ đẹp của người lái đò sông Đà trong quá trình vượt thác
* Vẻ đẹp tài hoa:
- Ông thạo nghề sông nước: thuộc lòng binh pháp của thần sông, thần đá
- Dòng sông nắm ghềnh, nhiều thác vô cùng nguy hiểm nhưng đối với người lái đò lại là
một sở thích
=> Ông là người có tài, có bản lĩnh.
* Vẻ đẹp trí dũng: được thể hiện qua 3 vòng vượt thác
Người xưa quan niệm:
Có gió lay mới biết tùng bách cứng
Có ngọn lửa lừng mới biết thức vàng cao
Vì vậy để làm nổi bật tài nghệ và trí dũng của ông lái đò Nguyễn Tuân đã dụng công mô
tả thuyền của ông lái vượt qua 3 thạch trận với thác ghềnh dữ dội, với sóng nước gầm reo
như một thứ lửa để thử vàng làm nổi bật tài nghệ ông lái đò.
 Cuộc vượt thác lần 1
- Sông Đà:
+ Bày thạch trận: 5 cửa (4 cửa tử và 1 cửa sinh)
+ Đá tướng, đá quân, đá tiền vệ
+ Nước reo hò làm thanh viện cho đá
+ Sóng nước liều mạng ùa vào sát nách mà đá trái mà thúc gối
- Người lái đò:
+ Thạch trận dàn bày vừa xong thì con thuyền vụt tới => tư thế chủ động
+ Người lái đò bị thương, mặt méo bệch đi
+ Tiếng chỉ huy tỉnh táo đưa con thuyền vượt thác
Lời văn: Nguyễn Tuân đã tạo dựng được những cảnh tượng vượt thác mang không khí
chiến trận thực sự giữa một bên là con thuyền với 6 tay chèo mà nổi bật nhất là ông lái đò
và bên kia là dòng sông Đà hung bạo.
Ở vòng giao đấu thứ nhất sông Đà bày ra 5 cửa gồm 4 cửa tử và 1 cửa sinh. Chi tiết này
cho thấy sông Đà quả là một đối thủ đáng gờm tinh quái và nham hiểm. Thêm vào vào đó
những hòn đá trên sông với đá tướng, đá quân... dữ tợn, ngỗ ngược. Chúng bày thạch trận
có tổ chức, có quy mô, có dã tâm: có đá tiền vệ để dụ dỗ thuyền vào, có đá đánh tập hậu
đằng sau. Nguyễn Tuân đã sử dụng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để truyền hồn sống
cho những thớ đá, truyền cho đá cái linh động ma quái biến chúng thành một bầy thạch
tinh hung hãn trên sông Đà. Khi cuộc giao đấu bắt đầu sông Đà giống như một con thủy
quái nham hiểm tấn công con thuyền của người lái đò từ nhiều phía: có nước reo hò làm
thanh viện cho đá, sóng nước liều mạng ùa vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối, đội thuyền
lên.
Trước sức mạnh hung bạo ấy của thác dữ người lái đò đã thể hiện bản lĩnh dũng cảm như
khả năng chống đỡ, chủ động chiến đấu và quyết chiến: “thạch trận dàn bày vừa xong thì
con thuyền vụt tới”. Nhưng trước sự tàn bạo của thác dữ người lái đò có lúc đã gặp nguy
hiểm, ông đò bị thương “mặt méo bệch đi”. Cũng chính lúc này với trí tuệ tỉnh táo, sự bình
tĩnh can đảm ông đò đã chỉ huy tỉnh táo đưa con thuyền vượt qua 4 cửa tử vào cửa sinh
bình yên.
 Cuộc vượt thác lần 2:
- Sông Đà:
+ Tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh bố trí lệch sang phải
+ Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá
+ 4, 5 bọn thủy quân xô ra níu con thuyền vào tập đoàn cửa tử
- Người lái đò:
+ Thay đổi chiến thuật
+ Nắm chắc bờm sóng, ghì cương lái
+ Nhớ mặt bọn này... đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên,
chặt đôi, mở ra đường tiến
Lời văn: Qua vòng vây thứ nhất ông đò lập tức rơi vào trận địa thứ hai. Ở cuộc giao tranh
lần này sông Đà hiện lên đầy tham vọng với nhiều cửa tử, cửa sinh duy nhất bố trí ngược
lại với cửa sinh ở vòng thứ nhất. Với nghệ thuật so sánh, ẩn dụ độc đáo: “Dòng thác hùm
beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông Đá”. Con sông giống như một con thú hoang dại đầy
bản năng nó hiện thân cho sức mạnh thiên nhiên khó chế ngự.
Nhưng cũng như lần trước ông đò không hề nao núng. Ông không phải là con người có
phép màu nhiệm, cũng không có sức mạnh phi thường để đấu lại với vị thần sông Đà, ông
chỉ có vũ khí là mái chèo, là trí tuệ, là khối óc nhanh nhẹn linh hoạt. Ở vòng vây này ông
đò thay đổi chiến thuật: có lúc ông đã nắm chắc bờm sóng, ghì cương lái, cưỡi lên thác dữ
sông Đà như cưỡi hổ, có lúc trước sự liều lĩnh của bọn thủy quân đá nước xô ra níu con
thuyền vào tập đoàn cửa tử thì ông đối xử thật linh hoạt: ông nhớ mặt bọn này, đứa thì ông
tránh mặt mà rảo bơi chèo lên, đứa thì đè sấn lên chặt đôi và mở ra đường tiến... Trên
chiến trận sông Đà, người lái đò đã thắng để lại sau lưng mình “thằng đá tướng đứng chiến
ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”.
 Cuộc vượt thác lần 3:
- Sông Đà:
+ Bày ít cửa hơn nhưng cả bên trái, phải đều là luồng chết.
+ Luồng sống duy nhất ở giữa hai cổng đá cánh mở cánh khép.
- Người lái đò:
+ Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động
lái được, lượn được.
Lời văn: Sang cuộc giao tranh thứ ba thì thực sự là một cuộc giao tranh đầy kịch tính. Ở
đây ngòi bút của Nguyễn Tuân trở nên bay bổng, linh hoạt bởi những liên tưởng đầy thú
vị khi miêu tả cảnh vượt thác của ông lái đò. Do sông Đà bị thua ở hai cuộc giao tranh nói
trên nên giờ đây nó trở nên nham hiểm và xảo quyệt như hiện thân của kẻ thù số một của
con người. Sông Đà bày ra ít cửa hơn nhưng cả bên phải, bên trái đều là luồng chết, luồng
sống duy nhất ở giữa bọn đá hậu vệ.
Nhưng chính trong giây phút nguy hiểm đó người đọc nhận ra được sự tài hoa phi thường
trong tay lái ông đò: “Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên
vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Ông lái đò thực sự là “tay lái ra hoa” tay
lái đã đạt đến trình độ điêu luyện thành cái đẹp, cái sang, đã chinh phục thần sông thần đá
dữ dội sông Đà. Ông xứng đáng là người anh hùng của thời đại mới trong cuộc chinh phục
thiên nhiên hoang dã. Đây là vẻ đẹp của con người thời đại mới, thời đại làm chủ thiên
nhiên, làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh, cuộc sống của mình.
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật ông lái đò:
+ Nguyễn Tuân đã chú ý tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ ở ông lái đò
+ Ông đặt nhân vật vào tình huống thử thách: trong cảnh vượt thác
+ Ngôn ngữ: đầy cá tính, giàu chất tạo hình hoàn toàn phù hợp với đối tượng. Người lái đò
sông Đà là những thước phim bằng ngôn từ đắt giá giữa con người lao động, với thiên
nhiên hoang dã, hung bạo. Con người ở thế nhỏ bé nhưng bằng mưu trí, bằng tài hoa, bằng
bản lĩnh kiên cường con người đã chiến thắng.
3. Liên hệ với nhân vật Huấn Cao trong cảnh cho chữ để nhận xét quan niệm của nhà
văn về vẻ đẹp con người.
* Giới thiệu về Huấn Cao:
- Huấn Cao là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
được viết trước Cách mạng tháng Tám.
- Là một người tài hoa, nghệ sĩ
- Vẻ đẹp tài năng: viết chữ siêu việt (đẹp lắm, vuông lắm, được người đời xem như báu
vật, tác động sâu sắc đến nhân vật quản ngục)
- Vẻ đẹp khí phách: tiền bạc, quyền lực không khuất phục được ông
- Vẻ đẹp thiên lương trong sáng: toát ra từ chữ của Huấn Cao, bản thân Huấn Cao có thiên
lương, biết trân trọng một tấm lòng
* Hình tượng Huấn Cao trong cảnh cho chữ:
- “Từ trong những dòng chữ mà Huấn Cao để lại cho đời đã là sự kết tinh của cái đẹp, cái
thiên lương trong sáng vời vợi của Huấn Cao”. (Hoài Thanh).
- Cái tài, cái tâm và khí phách của Huấn Cao được thể hiện rõ nhất trong cảnh cho chữ. Cái
tâm hòa quyện cái tài để sáng tạo ra cái đẹp.
- Những dòng chữ ông Huấn hiện lên một cách trực tiếp đó là những nét chữ vuông vắn,
tươi tắn mang những hoài bão tung hoành của đời người cho nên không chỉ là tấm lụa bach
trắng tinh mà chính những dòng chữ trên bức lụa Huấn Cao viết ra đã có sức tỏa sáng, làm
nổi bật những tấm lòng trong thiên hạ.
* Nhận xét về quan niệm của nhà văn về vẻ đẹp con người:
Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm kiếm cái đẹp. Ông luôn nhìn con người ở phương
diện tài hoa, nghệ sĩ. Trước và sau Cách mạng tháng Tám Nguyễn Tuân có những điểm
thống nhất và thay đổi trong quan niệm về vẻ đẹp của con người.
- Điểm thống nhất (giống nhau):
+ Nhà văn luôn tiếp cận và khám phá con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ: Huấn Cao
- tài viết chữ siêu việt; người lái đò – tài vượt thác.
+ Lối văn, ngòi bút uyên bác thể hiện ở lượng kiến thức khổng lồ, sự phối hợp của nhiều
tri thức, nhiều bộ môn văn hóa, nghệ thuật trong tác phẩm.
+ Kho từ ngữ phong phú, sử dụng điêu luyện. Nguyễn Tuân là bậc thầy của ngôn ngữ sống
động.
- Những thay đổi (khác nhau):
+ Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân chỉ khám phá chất tài hoa nghệ sĩ ở những người trí
thức (Huấn Cao) trong những thú chơi tao nhã (thư pháp) thì nay ông đã tìm thấy vẻ đẹp
nghệ sĩ ngay ở con người lao động bình thường nhất (ông lái đò). Theo Nguyễn Tuân nét
tài hoa nghệ sĩ của con người không chỉ thể hiện trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật mà
còn trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nữa. Khi con người đạt tới trình độ điêu luyện
trong công việc của mình là khi họ bộc lộ nét tài hoa nghệ sĩ đáng được đề cao.
+ Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích chơi ngông, thích chiêm
ngưỡng, chắt chiu cái đẹp thì sau Cách mạng, nhà văn nhạy cảm với con người mới, cuộc
sống mới từ góc độ thẩm mĩ của nó. Ông đã nhìn cái đẹp của con người là cái đẹp gắn với
nhân dân lao động, với cuộc sống đang nảy nở, sinh sôi đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ,
khẳng định bản chất nhân văn của chế độ mới. Có thể nói, trước 1945 Nguyễn Tuân là nhà
văn lãng mạn, sau 1945 ông là nhà văn cách mạng. Đó là bước chuyển tiếp tất yếu của
người trí thức yêu nước, một tài năng nghệ sĩ lớn.
+ Sau Cách mạng, Nguyễn Tuân không còn đối lập giữa quá khứ, hiện tại và tương lai nữa,
ông tìm thấy vẻ đẹp ở ngay hiện tại và tin tưởng ở tương lai.
+ Chất giọng khinh bạc không còn, nếu còn chỉ là để ném vào mặt kẻ thù của dân tộc hay
những mặt tiêu cực của xã hội.
Có sự chuyển biến đó là do trước Cách mạng, Nguyễn Tuân được biết đến với chủ nghĩa
xê dịch – bước chân của cái tôi lãng tử, vang bóng một thời – các nhà nho cuối mùa gặp
buổi giao thời Tây tàu nhố nhăng làm mất cả quan niệm cũ, làm tiêu hao bao nhiêu giá trị
thẩm mĩ, họ cảm thấy phẫn uất với buổi giao thời. Họ đã lưu giữ những vẻ đẹp xưa, những
thú chơi tao nhã: uống rượu, thưởng hoa, thư pháp. Thông qua các nhân vật này nhà văn
bày tỏ thái độ bất hòa sâu sắc với xã hội đương thời, ông không chạy theo danh lợi, lưu giữ
tâm hồn trong sạch với hai chữ “thiên lương”. Và đến sau Cách mạng, Nguyễn Tuân đã
đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo, đầy nghệ thuật, ca ngợi quê hương,
ca ngợi nhân dân trong chiến đấu và trong sản xuất.
III. Kết bài: 
Nguyễn Tuân với sự tài hoa, uyên bác, với vốn tri thức văn hóa sâu rộng kết hợp với vốn
từ ngữ giàu có đã miêu tả thành công hình tượng người lái đò trong cảnh vượt thác, một
người tài hoa trí dũng, chất vàng mười của con người Tây Bắc. Đồng thời nó càng khắc
họa rõ nét hơn quan niệm của nhà văn về vẻ đẹp con người trước và sau Cách mạng qua
đối sánh nhân vật Huấn Cao và người lái đò sông Đà. Với Nguyễn Tuân, con người chính
là tác phẩm tuyệt vời nhất mà tạo hóa đã ban tặng.