Cảm nhận:
“Cuộc đời tuy dài thế
…Để ngàn năm còn vỗ”
(Sóng – Xuân
Quỳnh)
Liên hệ với:
“Ta muốn ôm
…cắn vào ngươi”
(Vội vàng – Xuân
Diệu)
Từ đó nhận xét
về khát vọng tình yêu, khát vọng sống của 2 thi sĩ.
Xuân Quỳnh là một trong số những
nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến
chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn,
vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng
hạnh phúc bình dị đời thường. “Sóng” là bài thơ tình yêu đặc sắc của Xuân
Quỳnh, được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế đến vùng biển
Diêm Điền (Thái Bình). Hai khổ thơ cuối trong bài ”Sóng” thể hiện khát vọng
tình yêu, khát vọng sống của thi sĩ.:
“Cuộc đời tuy dài thế
…Để ngàn năm còn vỗ”
Đoạn thơ của
XQ gợi người đọc nhớ đến đoạn thơ của “ông hoàng của thi ca tình yêu” XD trong bài thơ ”Vội vàng”:
“Ta muốn ôm
…cắn vào ngươi”
Mới ở
khổ thơ trước, chị viết với tất cả niềm tin yêu vô bến bờ với những cảm xúc
tình yêu nồng nàn trong sự dào dạt của sóng xô bờ và nỗi nhớ người mình yêu
tràn ngập khắp không gian và thời gian: đêm – ngày, dưới lòng sâu – trên mặt
nước, trong mơ còn thức…thì ở đoạn thơ này thi sĩ lại đầy ắp những âu lo, dự
cảm.
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Thế giới của thời gian và không gian được Xuân Quỳnh
đặt cạnh nhau trong sự tương phản và đối lập giữa cái hữu hạn (kiếp người) và
cái vô hạn (thời gian và biển lớn). “Cuộc đời” và “năm tháng”, “biển rộng” và
“mây trời” và kiểu câu điều kiện “tuy-vẫn; dẫu-vẫn” kết hợp các tính từ “dài-rộng-xa”
tạo nên nỗi day dứt ám ảnh. Đặt cái hữu hạn vào cái vô hạn tận của thời gian,
nữ sĩ như thấy mình nhỏ bé, mong manh. Cuộc đời thì dài nhưng năm tháng vẫn cứ
thế đi qua; biển dẫu rộng nhưng không níu nổi một đám mây bay về vuối chân
trời; thời gian vô thuỷ vô chung mà quỹ thời gian tuổi xuân của mỗi con người
lại hữu hạn. Cuộc đời tưởng là dài, nhưng trong dòng thời gian chảy trôi bất
tận, giữa trời biển bao la, con người có thể chỉ là một thoáng phù
vân. Với người phụ nữ, điều ám ảnh nhất vẫn là sợ sự tàn phai, tàn
phai năm tháng, tàn phai của tuổi trẻ, của nhan sắc và theo đó là sự tàn phai
của tình yêu.
Thế mới biết, hạnh phúc của người phụ nữ phụ thuộc rất
nhiều vào hai yếu tố: nhan sắc và tình yêu. Điều đó chứng tỏ, tình yêu có sức
mạnh vô biên nhưng cũng đầy mong manh bởi “lời yêu mỏng mảnh như làn
khói – ai biết lòng anh có đổi thay”. Và cả chính hình ảnh “mây vẫn
bay về xa” kia trong câu thơ cuối cũng đầy những ám ảnh. Phải chăng vì biết
trước không có gì vĩnh viễn – “hôm nay yêu mai chắc phải xa rồi” nên anh cũng
như đám mây trời phiêu du kia bay về bến bờ khác, dù vòng tay em có rộng như
biển, có dài như sông cũng không thể nào níu giữ được anh trong vòng tay. Chính
sự nhạy cảm và day dứt của cái tôi Xuân Quỳnh trước thời gian và kiếp người;
giữa đổ vỡ và tin yêu đã làm cho hồn thơ này trở nên tha thiết mãnh liệt hơn
giữa cuộc đời.
Và với Xuân Quỳnh, những âu
lo, dự cảm đã mang đến một khát vọng mãnh liệt – khát vọng được bất tử hoá tình
yêu:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Mở đầu bài thơ là con sóng bỏ bờ để “tìm ra tận bể” và khổ thơ cuối cùng này
như tâm nguyện đã hoàn thành của sóng. Còn em thì sao?
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Hai chữ “làm sao” như tả hết được những trăn trở, băn khoăn, niềm mong mỏi,
khát khao mãnh liệt của người phụ nữ. Khát vọng được hóa thành trăm con sóng
nhỏ, khát vọng được tan thành trăm con sóng nhỏ là khát vọng được cho đi và
dâng hiến bởi có một nghịch lí trong tình yêu là “Hạnh phúc thật sự chỉ đến khi
bạn dám mạnh dạn cho đi chứ không phải nắm giữ thật chặt” (Christopher Hoare).
Hai chữ “tan ra” gợi ra nhiều cách hiểu. “Tan ra” không phải là mất đi, không
phải là để tan loãng vào cõi hư vô mà “tan ra” là hi sinh, là dâng hiến, là
khao khát được hoá thân cái tôi cá thể vào “trăm con sóng nhỏ” để hoà mình vào
“biển lớn tình yêu” để vĩnh hằng hoá, bất tử hoá tình yêu; cũng là một cách để
vượt qua giới hạn mong manh của cõi người.
“Tan ra” còn là
để vượt qua mọi giới hạn không gian, thời gian để trường tồn cùng tình yêu.
Trong phút giây giao hoà của cảm xúc thì “tan ra” hay “tan vào nhau” đều là
biểu hiện của sự hoà nhập trọn vẹn, thăng hoa. Tình yêu của lứa đôi phải chăng
hạnh phúc nhất vẫn là lúc được trọn vẹn cùng những khao khát: “em yêu
anh cuồng điên – yêu đến tan cả em” (Dệt tầm gai- Vi Thuỳ Linh); yêu đến
nỗi mà “từng nguyên tử của em cũng thuộc về anh” (Uýt man). Yêu và
mong ước được hiến dâng và hi sinh cũng chính là khao khát được sống hết mình
vì tình yêu. Có như thế tình yêu mới có thể tồn tại vĩnh hằng cùng với thời
gian; có như thế tình yêu mới chiến thắng được cái hữu hạn, mong manh của đời
người.
Hai câu thơ cuối khép lại đoạn thơ như lời kết cho một
quan niệm tình yêu hoàn mỹ:
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Ở đây, Xuân Quỳnh đã đặt “biển lớn” – không gian vô tận bên cạnh “ngàn năm”
thời gian vô cùng. Ý thơ vì thế trở nên mênh mông như tình yêu nối dài vô tận.
Đúng là khi hoà vào biển lớn tình yêu của nhân loại thì tình yêu của những cá
thể sẽ không còn cô đơn, không còn mong manh nữa. Sự trường tồn bất tử với thời
gian, không gian làm nỗi day dứt hữu hạn và những mong manh của cõi người như
cũng tan biến. Ở đó chỉ còn thấy sóng vỗ bờ và “còn vỗ” là còn yêu, còn
vỗ bờ là còn tồn tại. Như em còn sống thì sẽ còn yêu anh và sẽ còn yêu anh “cả
khi chết đi rồi” (Xuân Quỳnh).
Bàn về sự dâng hiến và hi sinh trong tình yêu, có lẽ chúng ta cũng nên rộng mở
“chân trời nghệ thuật” của bài thơ. Đặt hoàn cảnh năm 1967 khi bài thơ ra đời, khi
sân ga, giếng nước, con tàu diễn ra những “cuộc chia ly màu đỏ” – khi cả nước
ào ào xông trận vì miền Nam ruột thịt thì những tình yêu lứa đôi kia cũng phải
gác lại cho tình yêu lớn lao hơn – tình yêu Tổ Quốc. Bởi vậy những chàng trai
cô gái “xa nhau không hề rơi nước mắt – nước mắt dành cho ngày gặp lại”. Bởi
“khi tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”. Suy cho cùng, đó cũng là dâng hiến và
hi sinh, hi sinh tình yêu cá nhân mình để tình yêu cá nhân hoà vào biển lớn
tình yêu của đất nước, của trách nhiệm cao cả. Sự hiến dâng ấy cũng như tâm
nguyện góp những “mùa xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân lớn của dân tộc; sự hoá
thân thành trăm con sóng nhỏ cũng là hoá thân cho đất nước khi “Tổ Quốc gọi tên
mình”.
Đoạn thơ sử dụng thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu
diễn tả đúng những cung bậc cảm xúc của tình yêu. Đoạn thơ còn sử
dụng các phép tu từ nhân hoá, ẩn dụ…rất thành công. Ngôn ngữ thơ chọn lọc,
tinh tế; giọng thơ mềm mại, nữ tính…dễ đi vào lòng người.
Nếu đoạn thơ trong Sóng của Xuân Quỳnh là vẻ đẹp của
cái tôi muốn vượt qua sự hữu hạn của đời người để hoá thân vào biển lớn tình
yêu; thì đoạn thơ trong bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu lại bộc
lộ một cái tôi sôi nổi, vồ vập và khát vọng chiếm lĩnh.
Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong
các nhà Thơ Mới” (Hoài Thanh). Ông mang đến cho thơ ca đương thời một sức sống
mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những
cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và
tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết. “Vội vàng” là một
trong những bài thơ hay nhất của Xuân Diệu trước cách mạng.
Ở phần đầu của bài thơ, thi sĩ luận giải cho người đọc
thấy được tạo hoá có sinh ra con người không thể mãi mãi hưởng lạc thú ở chốn
trần gian. Đời người ngắn ngủi, tuổi xuân có hạn và thời gian trôi đi vĩnh viễn
không trở lại. Vì vậy thi nhân “giục giã” chúng ta phải “nhanh lên”, “vội vàng
lên” để tận hưởng bữa tiệc của trần gian khi mà “mùa chưa ngả chiều hôm”, khi
mà xuân đang non, cành còn tơ, đồng nội xanh rì, tháng giêng ngon…Có lẽ chính
vì vậy mà thi nhân đã khép lại bài thơ bằng một đoạn thơ mang sắc màu ái
ân mãnh liệt.
Ba chữ “Ta muốn ôm” đứng
biệt lập ở giữa đoạn thơ, gợi tư thế chủ động, tâm thế sẵn sàng của một chủ thể
đang đứng giữa đất trời, dang rộng vòng tay đón trọn hương đời.
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Điệp ngữ “ta muốn” như nhịp điệu hối hả, như hơi thở
gấp gáp của thi nhân. Chứng tỏ Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít, cuống quýt,
như muốn cùng lúc giang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng
mình. Thi nhân như muốn ôm hết vào lòng mình “mây đưa và gió lượn”, muốn đắm
say với “cánh bướm tình yêu”, muốn gom hết vào lồng ngực trẻ trung ấy “một cái
hôn nhiều”. Muốn thu hết vào hồn nhựa sống dạt dào “Và non nước, và cây, và cỏ
rạng”. Để rồi, chàng như con ong bay đi hút nhụy đời cho đến say “chếnh choáng”
hút cho đã cho đầy ánh sáng, “Cho no nê thanh sắc của thời tươi” mới lảo
đảo bay đi. Điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến nhấn mạnh các cấp
độ khát vọng hưởng thụ đạt đến độ thoả thuê, sung mãn, trọn vẹn. Xuân Diệu muốn
tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chếnh choáng”, “đã đầy”. Trong niềm cảm
hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân như một cái gì quý
nhất, trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, xuân
hồng, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khao khát cao độ.
Thơ Xuân Diệu có đặc trưng là sự vồ vập, cuồng nhiệt,
mạnh bạo. Mỗi một lần khao khát “Ta muốn” thì lại đi liền với một động từ chỉ
trạng thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, nồng nàn hơn “ôm-sự sống”, “riết-mây
đưa, gió lượn”, “say-cánh bướm, tình yêu”, “thâu-cái hôn nhiều”, để cuối cùng
là một tiếng kêu của sự cuồng nhiệt, đắm say thể hiện niềm yêu đời, khát sống
chưa từng có trong thơ ca Việt Nam “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”. Đây
chính là đỉnh điểm của sự khao khát cháy bỏng của nhà thơ.
Dưới ngòi bút của Xuân Diệu và trong ánh mắt “xanh
non”, “biếc rờn” của thi sĩ, mùa xuân hiện lên rõ rệt và sống động như có hình
có dáng, có hồn có sắc “Xuân hồng”. Mùa xuân như môi, như má của một người
thiếu nữ trẻ trung, tràn trề nhựa sống và đẹp xinh, trinh nguyên đang rạo rực
yêu đương, hay như một quả chín ngọt thơm trong vườn “Tháng giêng ngon như một
cặp môi gần”. Đứng trước cái hấp dẫn của mùa xuân, cuộc sống, thi sĩ hình
như không nén nổi lòng yêu đã đi đến một cử chỉ cũng thật đáng yêu:
Ta muốn cắn vào ngươi !
Có lẽ trong các bài thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng
thì đây là những vần thơ Xuân Diệu nhất. Vì mỗi câu, mỗi chữ đều mang hơi thở
nồng nàn, đắm say, ham sống của “một nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.
Thành công của đoạn thơ chính là nhờ vào một số yếu tố
nghệ thuật điệp ngữ “Ta muốn” được lặp đi lặp lại nhiều lần ; sử dụng
động từ mạnh : thâu, riết, say, hôn, cắn; giọng điệu say mê; nhịp điệu gấp
gáp; chuyển đổi thể thơ linh hoạt; từ ngữ táo bạo thể hiện cái tôi tràn đầy cảm
xúc của tác giả.
Hai đoạn thơ đều thể hiện cái tôi giàu cảm
xúc, giàu khát vọng mãnh liệt về tình yêu; đều thể hiện được khát vọng
mãnh liệt, cháy bỏng về tình yêu với cuộc đời. Khát vọng trong
“Sóng” là khát vọng của tình yêu lứa đôi, là khao khát dâng hiến đến tận cùng,
khát vọng thăng thiên, bất tử hoá tình yêu. Còn trong “Vội Vàng” – Xuân Diệu
thể hiện một quan niệm sống: sống vội vàng, sống giục giã, cuống quýt, phải tận
hưởng vì thời gian đi qua tuổi trẻ sẽ không còn. Vì lẽ cuộc đời trôi đi không
đứng đợi nên con người cần sống tận hưởng và tận hiến trong từng giây phút cuộc
đời, và đừng lãng phí những tháng năm của đời người, nhất là những tháng năm
của tuổi trẻ. Bởi “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt – Còn hơn buồn
le lói suốt trăm năm”.
Tình yêu là tiếng gọi của con tim và lý trí. Nếu Xuân
Quỳnh lại dịu dàng mà mãnh liệt qua khao khát được tan ra, được hiến dâng cho
cuộc đời thì “Vội vàng” giục giã thi nhân Xuân Diệu sống vồ vập, đắm say với
cuộc đời bởi “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”; sống để tận hưởng hương sắc
ngất ngây của đời. Dù mang hai quan niệm khác nhau trong tình yêu nhưng cả hai
đoạn thơ và tư tưởng của những thiên tài thi ca Xuân Quỳnh – Xuân Diệu vẫn cất
lên những giá trị nhân bản, nhân văn: yêu là sống hết mình cho tình yêu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét