Thứ Năm, 29 tháng 8, 2024

NHẠC TÍNH TRONG THƠ

 

Hiểu như thế nào về nhạc tính trong thơ?

Bàn về nhạc tính trong thơ, thực chất là nói đến khả năng tạo nên những cấu trúc, tổ hợp âm thanh dựa trên đặc tính âm học của lời, của ngôn ngữ.

Thơ có lúc được xem như là sự giao thoa giữa âm và ý. Mallarmé còn dị biệt hơn khi “liên kết những từ mà sức mạnh gợi cảm không được sinh ra từ ý nghĩa mà lại chỉ từ sự “rung động của âm thanh”. Chính hiệu quả về mặt âm thanh (nhịp điệu - nhạc tính) mà thơ khẳng định được tư cách loại hình của mình trong tương quan với các loại hình khác.

Thanh âm trong cơ chế “lặp lại” trên trục ngữ đoạn (kết hợp) đã tạo nên “một kiến trúc đầy âm vang” (Đỗ Đức Hiểu). Đó là nhạc tính của thơ. Tu từ học ngữ âm đã chỉ rất rõ hiệu quả của các kết hợp âm trong cấu trúc ngôn từ dựa trên những “tham số thanh học của ngôn ngữ” (Nguyễn Phan Cảnh). Trên bình diện lý luận, nhạc tính được tạo nên bởi sự hòa điệu của âm thanh (giai điệu) và nhịp điệu. Tuy vậy, bản thân âm thanh lại chưa phải là giai điệu. Âm thanh được tổ chức theo cường độ, trường độ, nhịp độ trong thời gian mới trở thành giai điệu. Tiếng Việt có đặc tính là đơn âm, đơn lập và nhiều thanh điệu với những âm sắc đa dạng nên có nhiều điều kiện, cơ hội để tổ chức, kết hợp, phối dàn nhạc.

Thơ Việt Nam đương đại kiến tạo nhạc tính dựa trên ba yếu tố: vần điệu, âm điệu và nhịp điệu.

Âm nhạc vốn là loại hình nghệ thuật thời gian. Với loại hình này, các yếu tố vật chất được loại bỏ, đồng nghĩa với việc loại bỏ các quy chiếu không gian, hướng đến “nội cảm thuần túy” (Hegel). Dựa trên đặc tính âm học của từ, tổ chức trong những đơn vị thời gian nhất định đã đem đến nhạc tính cho thơ. Nguyễn Phan Cảnh đã phân xuất kỹ lưỡng bằng các thao tác của ngữ âm học để chỉ ra: kỹ thuật tạo nhạc bằng âm điệu dựa trên đặc tính thanh điệu của từ. Như thế, ông đã lưu ý đến khả năng của yếu tố siêu đoạn tính. Ông phân định thanh cao gồm Ngang - Ngã - Sắc, thanh thấp gồm Huyền - Hỏi - Nặng. Một kỹ thuật tạo nhạc khác là dựa trên đặc tính âm học của nguyên âm và phụ âm. Nguyễn Phan Cảnh chỉ ra nguyên âm có đặc tính Bổng/ Khép (I), Bổng/ Mở (E), Trầm/ Khép (U), Trầm/ Mở (O) … Còn phụ âm, ông lưu ý đến những phụ âm vang (m, n, nh, ng), những phụ âm tắc (p, t, ch, c) …

Thơ Việt Nam đương đại kiến tạo nhạc tính dựa trên ba yếu tố: vần điệu, âm điệu và nhịp điệu. Về mặt loại hình, nhạc tính được tạo nên bởi vần điệu đến giai đoạn hiện nay không còn quan trọng nữa. Tuy vậy, vần điệu vẫn tồn tại, thậm chí là một dòng chảy khá lớn trong thơ đương đại. Biểu hiện của kiểu thơ này chính là các tác phẩm sáng tác theo thể thơ truyền thống: lục bát, năm chữ, bảy chữ, tám chữ,… với tổ chức vần chân hoặc vần lưng: Thôi em cứ việc đi tìm/ Cho môi khỏi héo cho tim khỏi tàn/ Biết đâu cuối bến trần gian/ Người xưa vẫn đợi em sang một bờ/ Gia tài tôi mấy vần thơ/ Trót đem đổi lấy dại khờ ngày yêu/ Tóc xanh đổ tím bóng chiều/ Lấy chi mua nổi những điều em mong ("Dỗi" - Lê Quốc Hán). Vần thơ tạo nên sự liên kết về mặt thanh âm do cấu trúc lặp lại tại các vị trí hiệp vần. Âm thanh được tổ chức, lặp lại trên trục thời gian, theo những nhịp độ (tempo) nhất định tạo nên nhạc tính.

Đối với thơ lục bát, thường là nhịp chẵn, đều đặn và hài hòa, khiến cho nhạc tính của thơ lục bát khi nghe cảm giác du dương, êm ái, dễ đi vào lòng người. Nhạc tính của lục bát nói riêng và các thể thơ có vần nói chung đều hướng tới cấu trúc này, nghĩa là tổ hợp thanh âm dựa trên sự lặp lại ở những vị trí nhất định trên chuỗi ngôn ngữ: Tháng giêng mưa ngoài phố/ Mưa như là sương thôi/ Những bóng cây dáng khói/ Như mộng du bên trời/ Tháng giêng ngày mỏng quá/ Nỗi buồn nghe cũ rồi/ Mà bên kia tờ lịch/ Nỗi niềm mưa xót rơi/ Tháng giêng mưa trên tóc/ Những người đi lễ chùa/ Theo giọt mưa cầu phúc/ Tiếng chuông từ bi mơ/ Tháng giêng mưa dưới bến/ Mỏng mai cô lái đò/ Mắt mưa em lúng liếng/ Trói tôi bằng vu vơ ("Mưa tháng Giêng" - Nguyễn Việt Chiến). Thơ Việt đương đại phát triển đến thời điểm hiện tại đã giải trừ sứ mệnh của vần điệu để hướng tới một cấu trúc tự do, thông thoáng hơn: nhịp điệu. Nhịp giữ cho âm thanh không rơi vào hỗn độn, hay đúng hơn là tổ chức âm thanh theo những ý hướng nhất định.

Âm thanh tự nó chưa phải âm nhạc. Chỉ khi nào, âm thanh được tổ chức trong thời gian, với cấu trúc lặp lại, khi đó mới hình thành nhịp - giai điệu là tiền đề của nhạc tính trong thơ. Với những nhà thơ mà tư duy tượng trưng trở thành đòi hỏi có tính bản thể của sáng tạo, “âm - nhạc - của - ngôn - ngữ” vừa là phương tiện nhưng đồng thời cũng là mục đích.

Chất thơ chính là chất nhạc: Chờ em đường dương cầm xanh/ dậy thì nõn dương cầm phố/ Chờ em đường dương cầm sương/ chúm chím nụ dương cầm biếc/ Chờ em đường dương cầm sim/ vằng vặc ngực dương cầm trinh/ Chờ em đường dương cầm khuya/ ôi cái im đêm thơm mọng/ Chờ em đường dương cầm trăng/ ứa nhụy, lạnh dương cầm xuân/ Chờ em đường dương cầm mưa/ giọt giọt lá buồn dạ khúc/... Xào xạc lòng tay khuya/ Anh về lối dương cầm lạnh ("Serenade 3" - Dương Tường).

Sáng tác của Dương Tường phát huy thế mạnh của “con âm” trong tổ chức lời thơ, giống như một bản nhạc. Vấn đề đặt ra, tự thân âm nhạc giải trừ các liên quan đến vật chất. Chỉ có âm thanh trong thời gian. Âm thanh lại trừu tượng,… Bởi thế, các thi sĩ tượng trưng đã tận dụng tính chất trừu tượng này nhằm biểu đạt sự âm u, sâu xa, kín đáo ẩn mật của tinh thần.

Dĩ nhiên, như đã nói, âm - nhạc - của - ngôn - ngữ không thể cạnh tranh được với ngôn - ngữ - âm - nhạc. Có chăng, các thi sĩ đề cao âm nhạc, nhạc tính trong thơ bởi thấy được ý nghĩa của nó trong việc đưa con người đến với sự tự do hoàn toàn, như Valéry nói: “Âm nhạc đưa chúng ta trở về với chính mình”. Trở về với chính mình nghĩa là trở về bản thể.

Một đặc điểm nổi bật của con người đương đại là tinh thần hướng tới các giá trị nhân bản, phát huy tối đa những giá trị bản thể, cất lời về tư cách hiện hữu của mình trong không thời gian, trong lịch sử. Và chỉ với âm nhạc, nhạc tính, những kín nhiệm của tinh thần mới có cơ hội được bộc lộ một cách đầy đủ.

Trong động thái ấy, thơ đương đại đã dịch chuyển từ Chữ - Nghĩa sang Chữ - Âm - Nghĩa. Cái nghĩa này cũng không chỉ là nghĩa tự vị, nghĩa ngôn ngữ học, mà đó là “chức năng thi ca” của ngôn ngữ thơ. R.Jakobson đã hết sức lưu ý: “Chỉ trong thi ca, bằng sự lặp lại đều đặn của những đơn vị tương đương với thời gian của chuỗi ngôn từ đã mang lại một kinh nghiệm sánh bằng - kinh nghiệm về thời gian âm nhạc”.

Tư duy âm nhạc là tư duy tượng trưng. Chỉ bằng âm thanh, những tổ chức giai điệu trong thời gian, nhịp độ, cao độ, trường độ,… cho phép hình thành các giao hưởng của thanh âm mà ta gọi là nhạc. Thông thường, như nhiều người đã thực hành, việc sử dụng các âm mở, vang, có vần bằng, cao bổng,… mang lại hiệu quả tốt hơn cho mục đích nhạc tính. Tuy vậy, đó chỉ là phần nổi lên của thanh âm trong một giao thoa, cộng hưởng nhất định. Sẽ rất cần các âm khác chìm, đục, tối, thấp,… để tạo nên các cú “bồi”, làm nẩy các thanh âm vang mở,… Như thế, chúng ta cần phải nói đến một thi pháp “giao thoa và cộng hưởng” (Chu Văn Sơn) mà không chỉ đề cập đến những gì nghe thấy. Nếu không có những bè trầm, những khoảng thấp, tối, đục, chuỗi thanh âm trong thời gian sẽ khó có thể ngân lên thậm chí có nguy cơ biến thành một hợp âm hỗn độn, xô bồ.

Thanh âm của ngôn ngữ, nhạc tính trong thơ chính là một thủ thuật tượng trưng đồng thời cũng là một biểu tượng về những điều tinh vi, kín đáo và sâu xa của thế giới, của tâm hồn con người. Các thi sĩ tìm đến nhạc tính như tìm đến một nguồn sống, nguồn thơ ở tầng cao hơn của tư duy và mỹ cảm. Và cũng có lẽ, chỉ trong những đặc tính siêu hình, trừu tượng của âm nhạc, con người mới thực sự tìm thấy sự tự do, mới thực sự trở về với chính mình như điều P. Valéry đã từng nhấn mạnh.

Thứ Ba, 27 tháng 8, 2024

BÀI THƠ HAY "THUỐC ĐẮNG" CỦA MAI VĂN PHẤN

 

THUỐC ĐẮNG

                     (Cho Ngọc Trâm)

 

Cơn sốt thiêu con trên giàn lửa

Cha cũng có thể thành tro nữa

Thuốc đắng không chờ được rồi

Giữ tay con

                    Cha đổ

Ngậm ngùi thả lòng chén vơi...

 

Con ơi! Tí tách sương rơi

Nhọc nhằn vắt qua đêm lạnh

Và những cánh hoa mỏng mảnh

Đưa hương phải nhờ rễ cay.

 

Mồ hôi keo thành chai tay

Mùa xuân tràn vào chén đắng

Tuổi cha nước mắt lặng lặng

Sự thật khóc òa vu vơ.

 

Con đang ăn gì trong mơ

Cha để chén lên cửa sổ

Khi lớn bằng cha bây giờ

Đáy chén chắc còn bão tố.

(Mai Văn Phấn. Rút từ tập "Giọt nắng", Hội Văn nghệ Hải Phòng, 1992)

Lời bình của em Trần Thị Mai Hương, HS Lớp 11A9 trường THPT Hiệp Hoà số 3, tỉnh Bắc Giang

 

Cốt lõi của nhân đạo là lòng yêu thương, bản chất của nó là chữ tâm đối với con người. Trước hết chúng ta hãy lắng nghe nỗi lòng của con người thông qua những tác phẩm viết về tình yêu thương, tình mẫu tử, phụ tử. Bài thơ "Thuốc đắng" của nhà thơ Mai Văn Phấn là một bài thơ hay, mang ý nghĩa nhân văn của tình phụ tử và triết lý nhân sinh sâu sắc, có ý nghĩa lớn lao về cuộc sống đời người.

      

Mai Văn Phấn là gương mặt thơ ca tiêu biểu của Việt Nam bởi những nỗ lực cách tân không mệt mỏi. Ông là nhà thơ có ý thức học hỏi những nền thơ ca hiện đại đi trước, sẵn sàng thu nạp kỹ thuật của các trường phái, triết thuyết để thử nghiệm làm mới, làm khác biệt tác phẩm của mình. Thơ ông nghiêng về lý trí, điêu luyện về dùng chữ, tân kỳ trong áp dụng các kỹ thuật trường phái thơ ca khác nhau, xử lý hài hòa giữa thành tựu thơ ca truyền thống và sự cách tân hiện đại. Tác phẩm thơ "Thuốc đắng" được sáng tác năm 1990, đã nhận được Giải thưởng Văn học mang tên danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm (của UBND TP Hải Phòng). Với lời tâm sự của người cha đối với đứa con bị ốm, bài thơ ca ngợi tình cảm mà người cha dành cho con, qua đó gửi gắm thông điệp: cuộc đời này nhiều chông gai và bão tố, người cha muốn con mình phải nhìn ra và chấp nhận nếm trải nó để lớn lên và trưởng thành.

     

Tình cảm người cha dành cho con được thể hiện ngay từ khổ thơ đầu. Mở đầu với cơn sốt của người con và hình ảnh cha bên cạnh chăm sóc. Cơn sốt như thiêu rụi thể xác con khiến cho cha bộc lộ sự lo lắng. Nếu như con phải chịu nỗi đau về thể xác, thì trong đáy lòng của người cha là nỗi đau tinh thần, phức hợp bao cảm xúc khôn tả. Nhìn thể xác con phải chịu đựng, phải gồng mình trong cơn sốt, người cha thương lắm! Người cha cảm thấy như mình có thể hóa "thành tro nữa". Cơn sốt của con mang một giá trị biểu tượng. Hành động "giữ tay con" và "cha đổ": đây là những động từ mạnh thể hiện sự thô bạo, áp chế cha cho con uống thuốc. Cha đã nhận thức về hoàn cảnh nếu không cho con uống thuốc thì cơn sốt sẽ không hạ. Suy cho cùng những hành động ấy của cha xuất phát từ tình yêu thương con mà thành. Dù cha không cam lòng để con phải nếm vị đắng ấy, dân gian xưa có câu "Thuốc đắng dã tật", thuốc tuy có vị đắng nhưng như vậy mới giúp con được. Sau hành động có phần thô bạo ấy lại là sự ngậm ngùi của cha mà "thả lòng chén vơi". Con đã được cho uống thuốc, chén cũng đã vơi nhưng trong lòng cha còn xót xa vô cùng! Khổ thơ dường như đã dồn nén cả ý và tứ, cha còn nỗi lo, một nỗi lo đau đáu trong tình trạng của con hiện tại. Nghệ thật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư, có thể thấy tình cảm cha dành cho con lớn tới dường nào.

    

Những suy nghĩ của cha vẫn chưa ngớt, suy nghĩ cho con trước cuộc sống sau này. Lời độc thoại nội tâm "Con ơi" - cha tự nói với lòng mình. Và những suy nghĩ gợi lên từ hình ảnh bắt con uống thuốc đắng để khỏi bệnh. Hình ảnh "sương" và "cánh hoa mỏng mảnh", sương muốn hiện hữu thành hạt vẫn phải vắt, phải trải qua đêm lạnh chắt chiu mới có được; cánh hoa muốn tỏa hương từ sự mỏng mảnh của mình vẫn phải nhờ tới chùm rễ cay chứ không thể tự mình bung nở hương thơm. Hai hình ảnh tuy nhỏ bé, đơn giản nhưng mang tính triết lí cao. Con cũng giống như sương sớm, như cánh hoa ấy và cha nghĩ về những thử thách chông gai con sẽ phải đối diện, trải qua sau này để con có thể hoàn thiện, phát triển bản thân làm nên giá trị riêng mình.

    

Dòng suy nghĩ vẫn cứ tiếp nối, cha nghĩ về chính cuộc đời mình. Câu thơ "Mồ hôi keo thành chai tay", mồ hôi và hình ảnh chai tay thể hiện sự vất vả, lam lũ khổ cực. Đôi bàn tay đã bị chai sạn theo thời gian trong cuộc sống. Được "keo" lại cho thấy sự gồng gánh trải qua từ rất lâu - minh chứng của thời gian để lại. Hình ảnh mùa xuân, chén đắng xuất hiện: mùa xuân là mùa khởi đầu trong năm, mang theo sức sống, sự tươi đẹp và những điều tốt lành hi vọng đối lập với hình ảnh chén đắng là chén thuốc nhỏ, chứa vị đắng của thuốc hay ẩn trong cái đắng ấy là vị đời mà cha đã phải trải qua chua chát. Động từ "tràn" mang giá trị biểu đạt hàm nghĩa cao, sau những đắng cay gian khổ ấy sẽ có sự hạnh phúc, niềm tin tươi đẹp tới. Những vị đắng cay từ chén nhỏ kia sẽ được mùa xuân mang hương vị ngọt ngào cùng  bao điều tốt đẹp, xua tan đi vị đắng của đời. Niềm hi vọng trong cuộc sống bão tố, đôi khi chỉ cần mạnh mẽ trong tinh thần là đủ. Câu thơ "Tuổi cha nước mắt lặng lặng" - một cuộc sống đã từng trải qua trong nước mắt, sống trong những khổ cực và chỉ biết nuốt nước mắt vào trong của cha, giờ bỗng ùa về trong hồi ức. Âm thầm chịu đựng "Sự thật khóc òa vu vơ", trước những khó khăn mà hoàn cảnh sống của cha mang đến, những sự thật mà không thể làm gì khác và cha khi đó vẫn là một đứa trẻ. Trẻ con khi phải chịu những tiêu cực ấy, việc có thể làm chỉ là khóc, cha đã sống như thế của một tuổi thơ bi hạnh. Cho tới bây giờ cha vẫn không có cho mình một niềm vui trọn vẹn. Và hiện tại ở cương vị người cha, của một người đã đi hơn nửa cái dốc cuộc đời, cha hi vọng khi con lớn lên sẽ không phải sống như cha đã từng trải, mà hãy vươn lên mạnh mẽ, hi vọng con có thể sống hạnh phúc trong chính cuộc đời mình.

    

"Con đang ăn gì trong mơ?", trong giấc mơ của con, giấc mơ của tuổi hồn nhiên ngập tràn màu hồng vô tư lự. Nhưng thực sự đó chỉ là cơn "mơ", giấc mơ của sự hi vọng chứa niềm khao khát về cuộc sống. Là ước mơ của con và cũng là mong ước của cha, cha luôn bên cạnh cùng con hướng tới những điều tốt đẹp. Hình ảnh người cha để chén lên cửa sổ là một biểu tượng, như cất lại trong kí ức của cha và cả của con. Bài thơ "Thuốc đắng" được xem là khai mở con đường thơ của Mai Văn Phấn, chiếc chén đặt trên cửa sổ cũng chính là tâm điểm trong không gian của tác phẩm này. Xuất hiện từ năm 1990 đến nay, đã gần 40 năm, đó như một minh chứng cho tình phụ tử vô cùng cao đẹp. "Đáy chén chắc còn bão tố", chén thuốc đầy vị đắng con đã uống hết. Bão tố là những khó khăn thử thách trong hành trình sống và trải nghiệm, khi con trưởng thành, tựa như cha đã trải qua sóng gió cuộc sống. Con uống đã cạn vị đắng trong chén nhỏ kia, nhưng có thể dư vị của chén thuốc trong đời sống, dưới đáy cái chén vô hình và hữu hình khác sẽ vẫn còn nổi lên những trận bão tố. Khi con lớn lên, cha mong con sẽ mang theo những suy nghĩ và những cảm xúc của cha lúc này, con phải trưởng thành và luôn vững vàng vượt qua mọi thử thách để thành công.

    

Bài thơ thể hiện tình phụ tử thật cao cả và sâu sắc: cách người cha yêu thương con, dạy con đối diện với những thử thách của cuộc sống. Ở đây, dường như không có bài học đạo đức nào, chỉ có những  sự thật trần trụi và đắng chát cha muốn con nhìn ra, để có thể chấp nhận và đối diện với nó khi con lớn lên. Bên cạnh đó còn là những âu lo cha nghĩ cho con. Người cha ấy mang trong mình niềm hi vọng và mơ ước: con sẽ có một cuộc sống hạnh phúc ý nghĩa.

    

Cuộc sống là một hành trình trải nghiệm, hành trình dài và mỗi người đều có cho mình những bước đi riêng. Trên con đường ấy chẳng một ai có thể cùng ta bước đi mãi mãi. Đối diện với những khó khăn chúng ta phải vượt qua chính mình. Con người khi trưởng thành kéo theo những suy nghĩ, cảm xúc, bản thân có sự thay đổi, phải thích nghi với chính bản thân mình với chính cuộc sống của mình. Dù là khó khăn vấp ngã cũng không được lùi bước, hãy lấy đó làm động lực để phát triển bản thân hướng về cuộc sống phía trước, con đường mình đã chọn là vươn tới ước mơ.

    

Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư. Bài thơ "Thuốc đắng" là một tác phẩm nghệ thuật, là kết quả của tình yêu thương: tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng với cuộc sống. Tiếng lòng của nhà thơ được thể hiện thông qua nghệ thuật đặc sắc của ngôn ngữ thi ca. "Thuốc đắng" được viết theo thể thơ tự do, với nhiều hình ảnh ẩn dụ tượng trưng, là tấm lòng, tình yêu thương vô bờ bến của người cha dành cho con. Những âm điệu trong bài thơ chói gắt, đầy kịch tính. Giọng thơ độc thoại - trữ tình của tác giả. Nước ta vào đầu những năm 90, những tàn dư của tư tưởng bảo thủ thời bao cấp vẫn còn ngự trị trong xã hội, ẩn sâu dai dẳng trong góc khuất mỗi con người. Câu chuyện người con gái bé bỏng của tác giả phải uống thuốc đắng cũng giống như xã hội ta khi ấy mang những căn bệnh nặng cần phải kịp thời chữa trị. Vậy muốn chấm dứt căn bệnh trầm kha ấy nhất định phải có thuốc chữa, dù đó là loại thuốc có vị “đắng”.

    

Bài thơ "Thuốc đắng" thể hiện tình cảm phụ tử thiêng liêng, mang giá trị nhân văn sâu sắc về cuộc sống. Hiểu cuộc sống vốn là như thế: có tốt - xấu, có ngọt ngào - đắng cay, có may mắn - rủi ro, để từ đó không kỳ vọng ảo tưởng, mà nhìn nhận và đón nhận cuộc sống như nó vốn có. Giống như người cha trong bài thơ mong con có bản lĩnh để bình thản đối mặt, sẵn sàng đón nhận mọi thử thách; đồng thời, có tình yêu cuộc sống, để thấy mọi khía cạnh của vẻ đẹp mà cuộc sống mang lại. Điều ấy khiến tất cả chúng ta đều nhận thức rằng, cái đắng cay đôi khi cũng nằm trong hạnh phúc.

 

BÀI THƠ HAY "NHẬT KÝ ĐÔ THỊ HÓA" - MAI VĂN PHẤN

Câu lục phá cách trong 'Truyện Kiều' (Vương Trọng, báo Văn nghệ công an online)

 Cùng là thơ lục bát, nhưng có bài nghe êm dịu, có bài lại trúc trắc, khó đọc. Nguyên nhân ngoài vần ra, còn do điệu, tức là thanh trắc và thanh bằng của các chữ trong câu quyết định điều đó.

Chúng ta biết rằng, với một câu thơ lục bát chuẩn thì chữ thứ 2 của câu lục cũng như của câu bát phải là thanh bằng, chữ thứ tư của mỗi câu phải là thanh trắc(*). Trong 1.627 câu bát của “Truyện Kiều”, câu nào cũng chuẩn, nghĩa là mọi câu đều có chữ thứ hai thanh bằng, chữ thứ tư thanh trắc. Nhưng trong 1.627 câu lục thì không như thế, nghĩa là có một số câu có chữ thứ hai thanh trắc, hoặc chữ thứ tư thanh bằng. Ta tạm gọi những câu lục như vậy là “câu lục lệch chuẩn” hoặc “Câu lục phá cách”. Trước hết ta hãy thống kê những câu lục ấy:

- Mai cốt cách, tuyết tinh thần
- Đau đớn thay phận đàn bà
- Nền phú hậu, bậc tài danh
- Người quốc sắc, kẻ thiên tài
- Khi tựa gối, khi cúi đầu
- Người nách thước, kẻ tay đao
- Đồ tế nhuyễn, của riêng tây
- Duyên hội ngộ, đức cù lao
- Nước vỏ lựu, máu mào gà
- Tin nhạn vẩn, lá thư bài
- Khi khóe hạnh, khi nét ngài
- Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
- Khi gió gác, khi trăng sân
- Khi hương sớm, khi trà trưa
- Khi chè chén, khi thuốc thang
- Sao chẳng biết ý tứ gì
- Có cổ thụ, có sơn hồ
- Khi Vô Tích, khi Lâm Tri
- Mụ quản gia, vãi Giác Duyên
- Hết nạn nọ, đến nạn kia
- Hại một người, cứu muôn người
- Người một nơi, hỏi một nơi
- Người yểu điệu, kẻ văn chương
- Tưởng bây giờ là bao giờ
- Thêm nến giá, nối hương bình
- Khi chén rượu, khi cuộc cờ.

Như vậy, ta tính được 26 câu lục lệch chuẩn, chiếm tỷ lệ chưa đến 1,6% tổng số câu lục. Trong 26 câu này thì có đến 21 câu có chữ thứ hai mang thanh trắc, và chỉ 7 câu có chữ thứ tư mang thanh bằng. Với những câu lục bát chuẩn, khi không thất vận, bao giờ nghe cũng êm tai; ngược lại với trắc bằng lệch chuẩn, ngay cả khi chuẩn vần, thường trúc trắc, khó đọc. Thế nhưng khi đọc “Truyện Kiều”, không câu nào ta có cảm giác trúc trắc, ngang ngang, ngay cả những câu lục lệch chuẩn. Nguyên nhân vì sao?

Ta biết rằng thơ lục bát thường ngắt nhịp từng cặp hai chữ một:

Trăm năm/ trong cõi/ người ta (2/2/2)
Chữ tài/ chữ mệnh/ khéo là/ ghét nhau (2/2/2/2)

Phần lớn những câu lục bát trong “Truyện Kiều” cũng được ngắt nhịp như vậy. Thế nhưng ở 26 câu lục lệch chuẩn trên kia, không câu nào Nguyễn Du ngắt theo nhịp 2/2/2 quen thuộc, mà ngắt theo nhịp 3/3. Như vậy, chính nhịp 3/3 trong câu lục có sức mạnh làm tiêu tan sự trúc trắc, cho phép một câu lục lệch chuẩn làm thành viên một cặp lục bát êm dịu, mượt mà. Phải chăng đây cũng là một “bí quyết” mà những người làm thơ lục bát chúng ta cần tham khảo?

Đọc lại 26 câu lục trên kia, ta thấy rằng, chúng không chỉ được ngắt theo nhịp 3/3; mà chỉ trừ ba câu: “Đau đớn thay phận đàn bà”, “Sao chẳng biết ý tứ gì”, “Người một nơi, hỏi một nơi”, còn 23 câu lục còn lại, mỗi câu được chia ra hai phần, tạo thành một cặp tiểu đối 3-3 hoàn chỉnh, và khi đó đọc lên nghe thuận tai hơn ba câu trên kia dù ngắt nhịp 3/3 nhưng không tạo thành tiểu đối.

Như trên đã nói, lục bát chuẩn thường có âm điệu du dương, lên bổng xuống trầm theo quy luật. Tuy nhiên nó cũng có “tác dụng phụ” là dẫn đến sự đơn điệu, nhất là đối với những bài thơ dài hay những truyện thơ hàng ngàn câu. Có đôi khi những câu lệch chuẩn giống như con ngựa bất kham dễ quật ngã những nài ngựa. trình độ hạn chế, nhưng với những nài ngựa giỏi thì tìm được cái hay ở chúng. Với “đàn ngựa ngôn ngữ” thì Nguyễn Du là nài ngựa kỳ tài, có phép riêng để sử dụng những con ngựa lệch chuẩn, để cho lục bát trong “Truyện Kiều” giàu âm điệu, tiết tấu, tránh được sự đơn điệu thường tình.

Cũng cần lưu ý rằng, khi không thể ngắt nhịp 3/3 thì đại thi hào tìm cách hoán vị các từ, chứ không chịu để cho câu lục lệch chuẩn xuất hiện. Ví dụ như khi nói về Hoạn Thư:

Ở ăn thì nết cũng hay
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.

Trong ngôn ngữ tiếng Việt, chúng ta thường nói nết “ăn ở”, chứ không mấy khi nói “ở ăn”. Nguyễn Du thừa biết điều ấy, nhưng nếu dùng “ăn ở” thì chữ thứ hai câu lục mang thanh trắc: “Ăn ở thì nết cũng hay”, không thể ngắt theo nhịp 3/3, thế là “con ngựa bất kham” này không có “chiêu ngắt nhịp” để trị, không thể dùng được, nên đành phải hoán vị hai chữ đầu câu để đưa nó về một câu lục chuẩn.

Để giúp các bạn dễ nhớ 26 câu lục trên, tôi ghép chúng lại trong một bài lục bát như sau:

Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, phong trần khác xa
Đau đớn thay phận đàn bà
Sống làm vợ khắp người ta, tội tình
Nền phú hậu, bậc tài danh
Tình đầu ngắn ngủi sau dành phần ai
Người quốc sắc, kẻ thiên tài
Vô duyên, chỉ để vắn dài dòng châu
Khi tựa gối, khi cúi đầu
Bên nhau ai biết về sau thế nào
Người nách thước, kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào đến ngay
Đồ tế nhuyễn, của riêng tây
Chắt chiu bao thuở, một ngày sạch lau
Duyên hội ngộ, đức cù lao
Nhẹ tình, nặng hiếu lòng đau biệt nhà
Nước vỏ lựu, máu mào gà
Tính toan của Mã nghe mà sởn gai
Tin nhạn vẩn, lá thư bài
Khi khóe hạnh, khi nét ngài, mà kinh!
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình, chiếc thân
Khi gió gác, khi trăng sân
Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ
Khi hương sớm, khi trà trưa
Bàn vây điểm nước, vần thơ họa đàn
Khi chè chén, khi thuốc thang
Không hay địa ngục, thiên đàng là chi
Sao chẳng biết ý tứ gì
Cho chàng buồn bã tội vì Hoa Nô
Có cổ thụ, có sơn hồ
Đêm Quan Âm Các lần mò trốn đi
Khi Vô Tích, khi Lâm Tri
Thương thay thân gái chuyển di bao miền
Mụ quản gia, vãi Giác Duyên
Mấy lần gặp gỡ, mấy phen chia lìa
Hết nạn nọ, đến nạn kia
Biết bao giờ mới yên bề thảnh thơi?
Hại một người, cứu muôn người
Người một nơi, hỏi một nơi, lầm đường
Người yểu điệu, kẻ văn chương
Đoàn viên một cuộc tình thương vô bờ
Khi chén rượu, khi cuộc cờ
Tưởng bây giờ là bao giờ, nét xinh
Thêm nến giá, nối hương bình
Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan…

Dùng bao câu chữ làng nhàng
Chỉ mong chuyên chở hạt vàng văn chương!

---------

(*): Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du không sử dụng thể lục bát gieo vần ở chữ thứ tư câu bát, nên ở đây không bàn về thể thơ đó.

THƠ THỜI SINH VIÊN

 

Chiều nay không có em

Thành phố như nín thở

Trái tim như ngừng đập

Lòng người như muốn khóc

 

Em có biết tại sao?

Vì anh yêu em lắm

Yêu cuồng dại si mê

Yêu như chưa bao giờ.

 

Em là hoa hồng thắm

Tô hồng mảnh đời anh

Em là linh hồn chúa

Trong trắng và đáng yêu.

 

Em ơi giờ ở đâu ?

Hãy nghe lời anh nói

Tim anh như chuông vọng

Gọi em về bên anh.

 

Anh vẫn đang chờ em

Hai trái tim đồng điệu

Hòa khúc nhạc ân tình

Mãi mãi suốt đời anh.



BÀI THƠ CHƯA ĐẶT TÊN

 

Bạn bè lâu gặp lại

Vui mừng khôn tả xiết

Nên không thốt thành lời

Bạn ơi bạn có hiểu?

 

Gặp bạn vui đến nỗi

Chỉ biết nhìn nhau cười

Lâu thật lâu mới nói

Chỉ vài tiếng mà thôi!

 

Còn bạn tôi đã hiểu

Gặp nhau bạn đã nhắc

Lời nhật ký ngày nào

Tôi chỉ mũm mỉm cười.

 

Chẳng phải tôi vô tình

Vui cũng không kém bạn

Bạn chớ trách lòng mình

Ta là bạn của nhau.

(Viết lúc còn sinh viên, khi gặp lại một người bạn thời trung học, tại thành phố HCM)



BÀI THƠ "MỘT NGÀY Ở THÀNH PHỐ"

 

MỘT NGÀY Ở THÀNH PHỐ

( Viết 15/5/2000)

Một ngày ở thành phố

Bao câu hỏi hiện về

Trẻ em không đi học

Lang thang trên nẻo đường

Đi tìm chút tình thương.

 

Một ngày ở thành phố

Bao câu hỏi hiện về

Người già không nhà ở

Lê thân chốn vỉa hè

Bơ vơ giữa chợ người

Biết đâu là mái ấm.

 

Một ngày ở thành phố

Lòng mang nặng nỗi buồn

Nơi đô thị phồn hoa

Có mảnh đời bất hạnh

Rồi ngày mai về quê

Câu hỏi vấn vương theo…




BÀI THƠ "MÙA XUÂN VÀNG ÁO EM BAY" - MAI DUYÊN THANH

 

MÙA XUÂN VÀNG ÁO EM BAY

(Mai Duyên Thanh.

Thân tặng em Trần Văn Tâm, giáo sinh.

23/3/2000)

Yêu sao màu áo em vàng

Mềm như cánh bướm nhẹ nhàng bay bay

Không còn tuổi má hây hây

Cho tôi hôn nhẹ má gầy em yêu

Tóc em bụi phấn vương nhiều

Cho tôi làm ngọn gió chiều mơn man

Sân trường hoa điệp nở vàng,

Hoa rơi trải thảm lót đường em đi

Mùa xuân vừa mới trở về

Bên trang giáo án, mơ gì hả em?

Cho tôi làm ngọn lửa đèn,

Soi trong khóe mắt em nhìn tin yêu!

Đầu năm sương muối còn nhiều

Rồi đây nắng ấm bao nhiêu hẹn hò!

Cho tôi lứa tuổi học trò

Để nghe em giảng những giờ văn chương.

Tiếng em hoà tiếng quê hương

Buồn vui theo những chặng đường đấu tranh.

Ca dao nồng thắm nghĩa tình

Tôi xin tặng một câu dành cho em.

Lời ru nào của mẹ hiền

Ngọt thơm dòng sữa đưa con vào đời!

Tôi thèm nghe tiếng à ơi

Võng đưa kẽo kẹt của thời bé thơ

Tôi thèm nghe truyện ngày xưa

Tìm trong cổ tích ước mơ của đời

Nâng niu từng chút tình người

Dẫu trong gian khó vẫn ngời niềm tin

Mùa xuân vàng áo bên thềm

Yêu người gieo hạt, yêu thêm cuộc đời.


* Cô Mai Duyên Thanh, giáo viên Ngữ văn trường THPT Nguyễn Khuyến, Q10, TP HCM. Thật bất ngờ và vô cùng xúc động, trong ngày chia tay kết thúc đợt thực tập, cô đã tặng quà và bài thơ này cho giáo sinh thực tập. Thật trân quý tình cảm của cô dành cho em. Nhớ mãi thời gian tập sự ở trường này và mãi nhớ về cô...


Thứ Tư, 21 tháng 8, 2024

Bài thơ: THẦY TÂM

 

THẦY TÂM

Giáo viên Ngữ văn

Dạy học lớp em,

Nào có ai khác

Ngoài thầy Tâm đây!

 

Thầy giảng chi tiết

Chúng em ngồi nghe,

Thầy ra câu hỏi

Chúng em trả lời.

 

Khi trả lời sai

Thì thầy không mắng

Khi trả lời đúng

Thì thầy khen ngay.

 

Chúng em rất quý

Người thầy dạy Văn

Nào có ai khác

Ngoài thầy Tâm đây!

             (Nguyễn MĐK*)

*Em Minh Đăng học sinh lớp 10A10, năm học 2023-2024.




CẤU TRÚC ĐỀ THI HSG TỈNH

BÀI LÀM NLXH ĐỀ THI HSG QUỐC GIA NĂM 2024

 

BÀI LÀM CÂU 1 (NLXH) KÌ THI HSG QUỐC GIA

Câu 1: Trải nghiệm - ghi lại - tức thời chia sẻ lên mạng xã hội có nên là phương cách khẳng định giá trị của người trẻ trong thời đại ngày nay.

Vũ trụ của chúng ta là một vần xoay không có điểm kết thúc. Hay nói cách khác, khi được tạo hóa trao cho sinh mệnh, con người thường nương theo đó mà trôi trên vòng quay số phận mà không tìm được điểm dừng chân. Kim đồng hồ cứ tích tắc quay, thời gian không chờ đợi và bốn mùa cứ mãi luân chuyển, nếu vần xoay ấy vô tình ngưng lại, phải chăng vũ trụ sẽ có sự xáo trộn? Có lẽ rằng, việc thần linh trao cho chúng ta “đôi cánh sinh mệnh” và trôi dạt trong vũ trụ là một đặc ân khó lòng chối từ. Chính bởi lẽ đó mà ta thường luôn băn khoăn về sống phải khẳng định giá trị của bản thân. Trong thời đại ngày nay, nhiều người trẻ đưa ra lựa chọn “Trải nghiệm - ghi lại - tức thời chia sẻ lên mạng xã hội” là phương cách khẳng định giá trị, có nên hay không khi lựa chọn phương cách ấy? Đây là một dấu hỏi lớn đặt ra cần phải truy tìm căn nguyên.


    Từ lúc sinh ra cho tới thời điểm hiện tại, mỗi khoảnh khắc bạn được sống chính là một “điểm chạm” trong chuyến hành trình. Helen Keller cũng đã từng bộc bạch rằng: “Cuộc sống là một chuỗi bài học cần phải sống mới hiểu được”. Như vậy, hiểu một cách đơn giản “trải nghiệm” chính là những gì ta đã trải qua và thu nhận trên hành trình sống. Nó bắt nguồn từ những quan sát, những va vấp khám phá không ngừng. Hơn tất cả, sự trải nghiệm chính là chất xúc tác để ta tích lũy thêm được tri thức và kinh nghiệm sống trong cuộc đời. Và sự trải nghiệm ấy cần được ghi lại bằng nhiều hình thức khác nhau, có thể ghi lại trong trí nhớ, ghi lại bằng những trang giấy hoặc ghi lại bằng những hình ảnh chất chứa nhiều kỉ niệm. Nói dễ hiểu hơn “ghi lại” là một hình thức giúp chúng ta có thể ghi nhớ được những điều đáng nhớ trong cuộc sống. Trước đây, con người thường trải nghiệm để ghi lại cảm xúc cũng như chiêm nghiệm của mình tuy nhiên xã hội thay đổi, thời buổi công nghệ số hiện đại lên ngôi nên một hình thức ghi lại những kỉ niệm của con người xuất hiện thêm đó là đăng hình ảnh lên mạng xã hội”, đây là một hình thức phổ biến của con người trong xã hội ngày nay, đây quả thực là một bước tiến để con người có thể ghi lại những khoảnh khắc nhanh hơn, lưu giữ lâu hơn mà vẫn có thể kết nối mọi người với nhau. Tuy nhiên tất cả mọi thứ đều có hai mặt lợi-hại, sự chia sẻ lên mạng xã hội ấy giờ đây kèm theo hành động “tức thời”, đó là sự chia sẻ thiếu chín chắn, sự vội vàng chưa suy nghĩ thấu đáo, đăng lên trong cảm xúc nhất thời. Nhiều người lại cho rằng khi có trải nghiệm, đã ghi lại thì bắt buộc phải đăng lên mạng xã hội hoặc đơn giản chỉ là đăng để khoe dù đó không phải là cuộc sống của mình, vậy mới là cập nhật theo xu hướng, đi theo số đông và đó là phương cách khẳng định giá trị của bản thân, từ đó hình thành nên sự nhất thời trong việc chia sẻ khoảnh khắc lên mạng xã hội.


    Không phải tự nhiên mà phương cách sống này cần phải suy ngẫm. Bởi vì chính bản thân ta cũng đang nhận ra rằng sự chia sẻ trên mạng xã hội hiện nay đang ngày càng phổ biến và nó đang dần mất đi tính thiết thực. Thay vào đó, mọi người chỉ đăng lên với mục đích để khoe, để cập nhật tình hình hay giải tỏa cảm xúc cá nhân. Hằng ngày, việc đầu tiên chúng ta làm là cầm ngay lấy chiếc điện thoại khi thức giấc, vào các nền tảng mạng xã hội như facebook, instagram xem hôm nay có thông tin gì mới không, hay có những người một ngày buộc phải đăng ít nhất một hình ảnh của bản thân lên để có thông báo, kéo tương tác dẫn đến tình trạng sống ảo trên mạng xã hội, có những người còn cố tạo ra vẻ ngoài hào nhoáng, đắp lên mình những thứ không phải của mình để cố tình tạo ra lớp vỏ bọc đẹp đẽ trên mạng xã hội. Tình trạng này đang xuất hiện ngày càng nhiều và gây ra nhiều vấn đề đáng báo động nên ta không nên coi “trải nghiệm - ghi lại - tức thời” chia sẻ lên mạng xã hội là một phương cách duy nhất để thể hiện bản thân.


    Thực tế, mạng xã hội giống như một thế giới phẳng, ở đó con người không bị ngăn cản bởi các yếu tố địa lí. Chỉ cần đăng ký tài khoản là chúng ta có thể kết bạn với mọi người, không bị giới hạn bởi quốc gia, khu vực, giới tính, độ tuổi. Đó còn là nơi giúp mình có được cơ hội thể hiện bản thân, là nơi kết nối mọi người trên thế giới với nhau thông qua một nút chạm. Tuy nhiên, nó lại được ví như con dao hai lưỡi bởi các mặt trái của nó đem lại khi ta sử dụng không đúng cách. Việc chia sẻ những khoảnh khắc thú vị trong cuộc sống là một điều tốt nhưng nếu mang trong mình suy nghĩ nhất định phải chia sẻ lên mạng xã hội để người ta biết đến mình, để mình không thua kém người ta, để phô trương những vỏ bọc ảo, kéo về lượt ngưỡng mộ hay lời khen không có thật thì đấy chính là biểu hiện của sống ảo, sống giả dối. Bạn bắt gặp hình ảnh một người bạn cũ chụp ảnh với nhà lầu, xe sang, đi du lịch khắp nơi với nhiều quần áo, túi xách hàng hiệu. Bất giác bạn cũng muốn sống một cuộc sống như vậy, lòng ghen tị, đố kị nổi lên và bạn không muốn thua kém người bạn ấy nên bạn tự tạo ra vỏ bọc như vậy để thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Đó là điển hình của việc chạy theo một hình mẫu không phù hợp làm mất đi giá trị thực tế của bản thân. Ngoài ra còn có trường hợp họ coi mạng xã hội là ngôi nhà thứ hai, gần như là thế giới song song với thế giới ngoài đời thực. Bất kì khoảnh khắc nào họ cũng đăng tải lên. Sáng sớm thức dậy việc đầu tiên họ làm là đăng một dòng trạng thái chào buổi sáng, tất cả các khoảnh khắc ăn uống, ngủ nghỉ sinh hoạt họ đều chia sẻ lên mạng xã hội. Không chỉ là sinh hoạt thường ngày, với khía cạnh cảm xúc họ cũng phải chia sẻ, từ những cảm xúc tích cực cho đến tiêu cực cũng được cập nhật. Nhiều khi những lời lẽ tiêu cực nhất cũng được đưa lên khiến cho mạng xã hội từ nơi kết nối mọi người trở thành một nơi tạp nham không ai hiểu được. Nếu là người dùng mạng xã hội chắc hẳn gần đây bạn cũng sẽ thấy rầm rộ vụ việc hai tiktoker là Haley và Louis có những lời lẽ không hay về nhau trên mạng xã hội dù trước đây họ từng là bạn thân. Họ kể hết thói hư tật xấu của bạn mình và đưa nó lên mạng xã hội. Cộng đồng mạng sẽ chẳng quan tâm ai đúng ai sai trong vụ việc này nhưng cá nhân hai cô gái sẽ trở thành mục tiêu bị cười chê bởi vì những gì họ làm chẳng khác gì một trò hề ở trên mạng xã hội. Như vậy, không nên chọn cách đưa tất cả lên mạng xã hội, đó không phải là phương cách duy nhất để thể hiện giá trị bản thân.

 

Mỗi cá nhân khi sinh ra đã là một phiên bản duy nhất, một cá thể đặc biệt không giống bất kì ai. Vậy nên việc chạy đua để trở nên giống với hình mẫu không phù hợp đó là việc bất khả kháng bởi hoàn cảnh mỗi người là khác nhau. Có rất ít người sinh ra đã “ở vạch đích”. Vì thế, nhiều người trong chúng ta cũng đã từng ước mơ được giàu có, xinh đẹp và lộng lẫy như hình mẫu mà mình thần tượng. Hơn hết, chúng ta luôn ao ước mình sẽ từ “cô bé lọ lem” biến thành một “nàng công chúa”, từ một “cậu bé chăn cừu” trở thành một “chàng hoàng tử”. Khi chúng ta có được điều mà mình muốn, chắc chắn cảm xúc lúc đó sẽ là thỏa mãn, vui thích. Tuy nhiên với một vẻ ngoài hào nhoáng, xinh đẹp, lộng lẫy chỉ thu hút được những ánh mắt hiếu kì và đố kị mà thôi. Sau đó, người ta sẽ dần quên mất bạn đã từng xinh đẹp, đã từng giàu có như thế nào. Để rồi, bạn vẫn sẽ cô đơn, lạc lõng, sống trong tự ti và lại thèm khát được người ta chú ý. Giá trị của mỗi người sẽ không nằm ở những thứ phù phiếm bên ngoài mà nó nằm sâu bên trong nội tâm của con người, để khẳng định giá trị, có lẽ mỗi người chúng ta cần tập trung phát triển bản thân. Trước hết, bạn cần phải biết được điểm mạnh, điểm yếu cá nhân để có định hướng học tập và phát triển. Khi đã xác định được điều đó hãy cố gắng tu dưỡng những giá trị bên trong như trí tuệ, tâm hồn, đạo đức, nhân phẩm, kĩ năng sống, cách ứng xử, giao tiếp… Có lẽ bạn thấy những giá trị đề cập trên đây có phần nhàm chán, sáo rỗng nhưng từ muôn đời nay, nó vẫn là thước đo chuẩn xác nhất về giá trị của một con người. Ngoài ra, nếu bạn biết chăm lo cho đời sống tinh thần của mình, rèn luyện cho mình một tư duy tốt để suy nghĩ tích cực hơn, tạo ra được nhiều giá trị cho bản thân, cho cuộc sống xung quanh thì đó mới chính là phương cách tốt nhất khẳng định giá trị của bản thân. Người ta sẽ chẳng tôn trọng những cái bạn phô khoe mà họ chỉ ngưỡng mộ những giá trị thật mà bạn sở hữu, bạn làm được cho cộng đồng và cuộc sống vậy nên hãy tự tìm cho mình một phương cách phù hợp, mạng xã hội chỉ là một công cụ để hỗ trợ chứ không phải là một sự lựa chọn phương cách. Tôi bất chợt nhớ đến Khánh Vy, nữ MC trẻ của đài VTV, chị chính là một ví dụ tiêu biểu cho thế hệ gen Z tạo ra giá trị cá nhân. Nổi tiếng từ video “Hot girl 7 thứ tiếng” trên mạng xã hội nhưng chị không dừng lại ở đó, chị luôn kiên trì học tập, cố gắng trau dồi kiến thức, tích lũy kinh nghiệm và giờ đây Khánh Vy đã có đủ sự nghiệp, tri thức và cả sự nổi tiếng. Vậy nên hãy khai phá giá trị bên trong của bạn, mạng xã hội chỉ là công cụ để hỗ trợ, không phải là phương cách duy nhất.


    Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, hãy cố gắng trải nghiệm những điều mới mẻ trong cuộc sống nhưng thực tế vẫn còn rất nhiều người không thích sự trải nghiệm nên bỏ qua những cơ hội mới mẻ, sống ảo trên mạng xã hội nhưng lại thiếu kiến thức thực tế. Đây chính là một sự thiếu sót nếu không biết tận dụng cơ hội của các bạn trẻ. Sự thiếu kiến thức thực tế này khiến họ nhất thời xúc động và đăng nhiều dòng trạng thái lên mạng xã hội một cách thái quá và không kiểm soát khiến việc chia sẻ kỉ niệm trở nên “nhất thời” và nghĩ đây là cách khẳng định giá trị. Đây là quan niệm sai lầm, vậy nên hãy cố gắng thay đổi để chọn ra một phương cách phù hợp để khẳng định giá trị của bạn.

 

Quả thật, nếu được làm những điều mình muốn thì sẽ rất hạnh phúc, tuy nhiên nếu làm những điều khiến giá trị bản thân thấp đi là điều không đáng. Không có hạnh phúc nào mà không đến từ hành động. Nhìn nhận lại bản thân, tôi thấy cá nhân mình cũng thích có những trải nghiệm mới mẻ, thích ghi lại những trải nghiệm nhưng đôi lúc tôi vẫn chưa chọn được phương thức khẳng định giá trị cá nhân, chưa tập trung vào cách thức rèn luyện bản thân, tập trung vào tri thức và tôi đang dần thay đổi điều này. Tôi tập cho mình những thói quen tích cực như đọc những trang sách hay, học những kiến thức mới mẻ, dù là nhỏ thôi nhưng nó cũng khiến tôi hạnh phúc.


    “Mỗi người đều có quyền lựa chọn cách sống cho riêng mình, miễn là hạnh phúc” (Nghệ sĩ Thành Lộc). Câu nói đầy lắng đọng này giúp chúng ta thấu hiểu hơn về cách sống của mỗi người, Xuân Diệu cũng từng nói: “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất”, vậy nên không cần phải chạy theo bất kì ai. Đừng vì những những xu hướng nhất thời mà không tìm ra phương thức khẳng định giá trị của bản thân một cách đúng đắn. Cuộc đời có vô vàn phương cách khẳng định giá trị, bạn đã tìm ra phương thức để mình tỏa sáng hay chưa?