Phân tích hình ảnh con sông Đà trong tùy bút “Người
lái đò sông Đà” (Nguyễn Tuân)
DÀN BÀI
I. Mở bài:
- Là một nhà văn tài hoa, độc đáo, Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái
gì dữ dội, mãnh liệt hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất
của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước …
- Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế
về vẻ đẹp của núi sông, cỏ cây trên đất nước mình. Bút kí “Người lái đò sông
Đà” đã thể hiện đậm nét phong cách Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà “hung
bạo và trữ tình” chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy
thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc.
II. Thân bài:
1. Khái quát:
- “Người lái đò
sông Đà” rút từ tập tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân.
- Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp ông đến với Tây
Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là kết quả của chuyến đi
thực tế Tây Bắc năm 1958.
- Nguyễn Tuân đến với nhiều
vùng khác nhau, sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường và
đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới đã đem lại cho nhà văn
nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Đến với những tác phẩm của Nguyễn Tuân là ta đang
đến với một tâm hồn vô cùng phong phú, với những phát hiện hết sức tinh tế, độc
đáo về quê hương. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, giàu lòng tự hào dân
tộc. Tình yêu nước ấy cũng chính là tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về
sông Đà – dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của
ông. Chỉ có N.T mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến
tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc
huyện Cảnh Đông , dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Li Tiên,
Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước N.T có thể kể tên vanh vách 50/73
con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ. Cũng
không có ai như Nguyễn, để có thể hạ bút viết đúng 3 câu về màu sắc nước sông
Đà đã phải có mấy lần bay ngang qua miền sông ấy. Dòng sông Đà trong cảm nhận
của nhà văn có hai nét tính cách đối lập: hung bạo và trữ tình.
2. Phân tích:
a. Sông Đà hung bạo, dữ dội:
---- Mở đầu là lời đề từ :”Chúng thủy
giai đông tẩu/ Đà giang đôc bắc lưu”
=> đã gây chú ý ,tạo ấn tượng ban đầu về 1 dòng sông khác thường có cá tính riêng, phóng túng, bứt
phá so với những con sông khác
----- Từ thượng nguồn:
do chịu ảnh hưởng của địa hình vùng rừng núi trùng điệp ở Tây Bắc hiểm trở, SĐ
mang vẻ đẹp hùng vĩ, kì thú với
khung cảnh:
+ Bờ sông
đá dựng thành vách ,cao sừng sững che khuất cả mặt trời : “ Hùng vĩ
Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà càn là những cảnh đá bờ sông dựng
vách thành Mặt sông chỗ ấy chỉ
lúc đúng ngọ mới có mặt trời”
+ Có vách đá cao, chẹt chặt lấy
lòng sông “ như một cái yết hầu” khiến lòng sông trở nên rất hẹp. Hẹp
đến nổi con hổ con nai có thể nhảy vọt qua sông như chơi, và chỉ cần nhẹ
tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách…
+ “Ngồi trong khoang đò qua
quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh”
cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung
cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện
-> Bằng cách tả thực,cách so
sánh, liên tưởng vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng , NT đã quan
sát ở nhiều góc độ và cảm nhận bằng nhiều giác quan, để phác họa cho người đọc
những nét đầu tiên về sự hiểm trở,hung
dữ của 1 quãng sông rất hẹp và sâu
hút vì những vách thành do đá dựng, làm cho mặt sông nơi
ấy vô cùng tối tăm và lạnh lẽo âm u
đến rợn người, với lưu tốc dòng nước chảy rất nhanh đầy nguy hiểm
-- Ở mặt ghềnh Hát Lóong:
+
Gió trên sông Đà: “ nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”
=> bằng lối viết tài hoa, những
câu văn diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, gợi hình ảnh con
sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.
+
Những hút nước : “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái
bị sặc”, “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên …” những cái hút nước lôi tuột bè gỗ
xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác” ® Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài
thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp
con người.
- Thác nước sông
Đà: được miêu tả qua âm thanh rất đa dạng:
+ Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi
thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá
+ Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc
ca như “oán trách”, “van
xin”, rồi như “khiêu khích”, “giọng gằn
mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng
bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn
khích mạnh mẽ và man dại: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa … rừng lửa cùng gầm thét
với đàn trâu da cháy bùng bùng…” ® Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước
sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng,
động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả
sông, N.T quả là đã chơi ngông lắm trong
nghệ thuật
- Đá ở sông Đà
:
+ Đá mai phục dưới lòng sông hàng ngàn năm,,đá nổi hình ,nổi tướng “bệ
vệ” “oai phong lẫm liệt”,” “nhổm dậy”
“vồ lấy thuyền”
=> Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng
sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh của
điêu khắc, của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá: “Cả một chân trời đá … mặt
hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó” ® Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của
Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ => đá
như bầy giặc cỏ !
+
Đặc biệt khi đá kết hợp với sóng, thác : tạo ra 3
trùng vi thạch trận,với nhiều cửa tử,chiều chiến thuật đánh khác nhau, nhiều đòn
đánh thâm hiểm… :
*
Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì “hất hàm” khiêu chiến, đứa thì “thách thức”, “mặt nước
hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo”, sóng nước “đá trái, thúc gối vào bụng vào hông
thuyền”…
* Trùng vi thạch trận thứ II: Sông
nước bày binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều cửa tử, cửa sinh nằm ở phía hữu
ngạn… sóng thác níu lấy con đò đưa vào cửa tử
*
Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là
luồng chết,tìm mọi cách ăn chết con thuyền…
Þ Con sông Đà lắm thac ghềnh, hung bạo, tàn ác không khác
gì “kẻ thù số một của con người”. Nhưng đó cũng là 1 công trình hùng vĩ, tuyệt
vời của tạo hóa ,là biểu tượng của sức mạnh thiên nhiên, là tiềm năng thủy điện
lớn của đất nước ta .Cũng chính từ hình ảnh con sông ấy ta thấy được tài năng
nghệ thuật tài hoa, tài tử và cực kì uyên bác của Nguyễn Tuân- một ây bút số
một về thể loại tùy bút VN.
b. Sông Đà – trữ tình:
Dòng sông Đà không
chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá” mà nó còn
là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người.
- Từ trên máy bay
nhìn xuống :SĐ mang vẻ đẹp của một giai
nhân đầy nữ tính:
+ Dáng vẻ mềm mại,uyển chuyển :“con
sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng
tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban,
hoa gạo …”
+ Màu
sắc dòng nước thay đổi theo mùa : Mùa xuân “ xanh màu ngọc bích”
(khác với sông Gâm, sông Lô “màu xanh canh hến”), mùa thu nước sông “lừ lừ
chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa …”
=> Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng,
quyến rũ và tình tứ.
- Theo bước chân người đi rừng lâu ngày : Sông Đa mang vẻ đẹp gợi cảm như
một cố nhân : gặp SĐ , có cảm giác
vui sướng, đầm đầm ấm ấm, thân thương bất ngờ như cố nhân lâu ngày gặp lại, vừa
quen vừa lạ : vui như thấy nắng gìon
tan sau kì mưa dầm , vui như nối lại chiêm bao đứt quãng
- Nhìn từ khoang đò của du khách : Đôi bờ SĐ mang vẻ đẹp đầy chất
thơ , với những cảnh quan cực kì gợi cảm,tĩnh lặng,hoang vắng ,êm đềm : lá non nhú trên những nương ngô, những con
hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” …
“Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi
niềm cổ tích tuổi xưa…”.
Þ Với giọng văn nhẹ nhàng,mượt mà, những câu văn
viết như thơ ,Nguyễn Tuân đã say mê miêu
tả vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của dòng
sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha đ/với thiên nhiên đất nước. Lòng ngưỡng mộ,
trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã
tạo nên những trang văn đẹp hiếm có – Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài
hoa bậc nhất của nền văn học Việt Nam.
III. Kết bài:
Phong cách Nguyễn Tuân độc đáo và phong phú. Ở tùy bút
“Người lái đò sông Đà” chúng ta thấy phong cách giá trị của ông thể hiện rõ
nhất là sự nhọn sắc của giác quan nghệ sĩ đi đôi với một kho chữ nghĩa giàu có
và đầy màu sắc, lối văn rất mực tài hoa. Dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình”
chảy mãi trong dòng văn học nước nhà như niềm yêu mến và tự hào về cỏ cây sông
núi quê hương của nhà văn Nguyễn Tuân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét