Thứ Ba, 1 tháng 10, 2019

Phân tích đoạn trích “Đất Nước” để làm rỏ tư tưởng cốt lõi “Đất Nước của Nhân dân”.


Phân tích đoạn trích “Đất Nước” (Trích Chương V – Trường ca “Mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm) để làm rỏ tư tưởng cốt lõi “Đất Nước của Nhân dân”.

DÀN BÀI

I. Mở bài:
- N.K.Đ là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ
- Trường ca “Mặt đường khát vọng” là tác phẩm tiêu biểu, làm nên tên tuổi của ông.
- Điểm đặc sắc, độc đáo của đoạn thơ “Đất Nước” trong bản trường ca này là sự cảm nhận về đất nước trong một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện và làm nổi bật tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.
II. Thân bài:
1.Khái quát: (Đề 1)
2. Phân tích:
a. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” được N.K.Đ thể hiện trước hết bằng một chất liệu phù hợp: chất liệu văn hóa dân gian:
* Cả bài thơ  được sáng tạo  từ những gì quen thuộc nhất trong nền văn hóa lâu đời của người VN , thấm đẫm chất dân gian truyền thống:
 - Hàng loạt các câu chuyện kể,  các thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca;  các phong tục tập quán….xuất hiện trong các câu thơ đều bắt nguồn từ VHDG ,chúng đã hóa thân thành các câu thơ của N.K.Đ:
+ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
+ “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
+ “ĐN là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
->  trong diện mạo của các câu thơ trên ta bắt găp câu thành ngữ: “Một nắng hai sương”, câu ca dao: “Tay nâng đĩa muối chén gừng – Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” và bài ca dao nổi tiếng: “Khăn thương nhớ ai, khăn rơi xuống đất – Khăn thương nhớ ai, khăn vắt lên vai…”
- Có những câu thơ rất giản dị nhưng được nhào nặn, tái tạo từ nhiều nguồn chất liệu khác nhau: “ĐN bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
+ Câu thơ gợi lên một tập tục đã ăn sâu vào truyền thống của dân tộc (tục ăn trầu), gợi nhớ câu thành ngữ quen thuộc “Miếng trầu là đầu câu chuyện”=> nét đẹp trong văn hóa ứng xử của ngườiViệt , và những đạo lí tình nghĩa gia đình qua “Sự tích trầu cau”…
+ Hình ảnh “miếng trầu bây giờ b ăn” còn là một biểu tượng thiêng liêng: Mỗi miếng trầu đều gánh trong nó một phần ĐN; mỗi miếng trầu bà ăn hôm nay đều đã có 4000 năm tuổi. Quá khứ luôn có mặt với hiện tại, lịch sử vẫn hiện diện với hôm nay
-> ĐN được chắt chiu, gìn giữ trong cả những sự vật nhỏ bé, bình dị.
=> Văn hóa dân gian đã khơi dòng cảm hứng, chảy từ hình tượng đến từng câu chữ của đoạn trích “Đất Nước”.
b. Tư tưởng “ Đất nước của nhân dân” được cảm nhận theo chiều rộng của không gian địa lí,, chiều dài thời gian lịch sử và chiều sâu của bản sắc văn hóa:
* Theo chiều rộng của không gian địa lí :   N/d đã hóa thân vào sông núi thiên nhiên làm nên dáng hình ĐN :
  - TG khẳng định những cảnh quan t/nhiên của ĐN đều từ n/d mà có:
           “ Những người vợ nhớ chồng……thắng cảnh”
+  Liệt kê dồn dập => kể ra biết bao địa danh t/nhiên ở 3 miền ĐN.  Mỗi địa danh không phải là những dòng tên vô nghĩa. Đằng sau mỗi tên đất, tên rừng, tên núi, tên sông là mỗi cuộc đời n/dân ; mỗi cuộc đời là một huyền thoại…
            + Điệp từ “ góp” => nhấn mạnh 1 chân lí chính nhân dân đã gây dựng, mở mang, gìn giữ làm  nên đất nước này: n/d là chủ nhân của ĐN
Mỗi địa danh gắn với những cái tên bình dị của n/d như “ ông Đốc, ôngTrang, bà Đen ,bà Điểm…” => t/cảm yêu mến tự hào
                                   “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
                                     Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
                                     Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
 Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
            + Câu hỏi tu từ,giọng thơ tha thiết và thán từ  “ôi”    => cảm xúc dâng tràn trước phát hiện mỗi con người,mỗi vật đi qua trong LS  đều để lại chút gì cho ĐN=>  tự hào, biết ơn sâu sắc
* Theo chiều dài lịch sử và bề  sâu văn hóa:
-  Nhìn về lịch sử, N.K.Đ không nhắc đến các triều đại nổi tiếng, những anh hùng đã lưu danh. Nhà thơ thấy lịch sử 4000 năm của dân tộc là một cuộc chạy tiếp sức không mệt mỏi của hàng ngàn thế hệ. Họ là những người vô danh, bình dị , là Nhân dân  lặng thầm hi sinh bảo vệ ĐN . N/dân đã hóa thân mình cho “dáng hình xứ sở” muôn đời :
“Có biết bao người con gái, con trai
 Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
 Họ đã sống và chết
 Giản dị và bình tâm
 Không ai nhớ mặt đặt tên
 Nhưng họ đã làm ra ĐN”
  => Lòng tri ân, tự hào ,cảm phục
-  Từ chiều sâu văn hóa: TG khẳng định nhân dân _ những con người “không ai nhớ mặt đặt tên” đã gìn giữ và lưu truyền những giá trị vật chất và tinh thần cho các thế hệ mai sau,giữ hồn Việt qua những việc cụ thể:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
 Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
 Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
 Họ gánh theo tên    tên làng trong mỗi chuyến di dân
 Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
 Có ngoại xm thì chống ngoại xâm
 Có nội thù thì vùng lên đánh bại
 Để ĐN này là ĐN của Nhân dân
 ĐN của Nhân dân, ĐN của ca dao thần thoại”
- Sự sống của cộng đồng theo thời gian được kết tinh thành bản sắc văn hóa riêng. N.K.Đ nghiền ngẫm và khám phá bề dày văn hóa của dân tộc qua những hình ảnh hết sức bất ngờ và cảm động:
+ Nhà thơ không nhắc đến những công trình văn hóa hay những tác phẩm văn học nổi tiếng mà phát hiện ra trong những sự vật bình thường nhỏ bé chứa đựng văn hóa ngàn đời của đất nước: từ hình ảnh  bới tóc sau đầu của mẹ  đến miếng trầu của bà, từ hạt gạo ta ăn ,cái nhà ta ở đến hình ảnh của lửa,hòn than, con cúi    tiếng nói dân tộc, cùng những kinh nghiệm sản xuất…
=> Bằng tấm lòng trân trọng tất ca những gì mà tổ tiên đã chắt chiu, gìn giữ, N.K.Đ đã sáng tạo những câu thơ làm rung động tâm hồn của người Việt. Đó là sản phẩm của một tư duy sắc sảo, nhưng trước hết là sản phẩm của một trái tim yêu nước, yêu dân tha thiết
c. Nghệ thuật:
- Đây là đoạn thơ trữ tình – chính luận; kết hợp thành công xúc cảm và suy nghĩ, trữ tình – chính luận.
- N.K.Đ đ sử dụng rộng rãi và sáng tạo các chất liệu của văn hóa dân gian _ điều đó đã tạo ra cho đoạn thơ 1 không gian nghệ thuật đặc sắc: gợi mở 1 thế giới nghệ thuật quen thuộc, gần gũi mà bay bổng của văn hóa dân gian, kết tinh tâm hồn và trí tuệ của nhân dân.
- Hai chữ ĐN và Nhân dân được viết hoa trang trọng và điệp lại nhiều lần vang vọng khắp đoạn trích như một khúc nhạc thiêng về sự sinh thành và trường tồn của ĐN.
III. Kết bài:
- Với ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, nhà thơ đã bình dị hóa đất nước một cách bất ngờ, cảm động.
- Bên cạnh những khái niệm trừu tượng, kì vĩ về đất nước mà ta đã bắt gặp trong “Nam quốc sơn hà” (Lí Thường Kiệt?), “Bình Ngô đại cáo” (Nguyễn Trãi), người đọc ngỡ ngàng, cảm động nhận ra một đất nước thân thương, máu thịt trong thơ N.K.Đ – “ĐN của Nhân dân, ĐN của ca dao thần thoại

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét