Phân tích đoạn trích “Đất Nước” (Trích Chương V – Trường ca “Mặt đường khát vọng”
– Nguyễn Khoa Điềm) để làm rỏ tư tưởng cốt lõi “Đất Nước của Nhân dân”.
DÀN BÀI
I. Mở bài:
- N.K.Đ là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ
- Trường ca “Mặt đường khát vọng” là tác phẩm tiêu biểu, làm nên tên tuổi
của ông.
- Điểm đặc sắc, độc đáo của đoạn thơ “Đất Nước” trong bản trường ca này là
sự cảm nhận về đất nước trong một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình
diện và làm nổi bật tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.
II. Thân bài:
1.Khái quát: (Đề 1)
2. Phân tích:
a. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” được N.K.Đ thể
hiện trước hết bằng một chất liệu phù hợp: chất liệu văn hóa dân gian:
* Cả bài thơ
được sáng tạo từ những gì quen
thuộc nhất trong nền văn hóa lâu đời của người VN , thấm đẫm chất dân gian truyền thống:
- Hàng loạt các câu chuyện kể, các thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca; các phong tục tập quán….xuất hiện trong các
câu thơ đều bắt nguồn từ VHDG ,chúng đã hóa thân thành các câu thơ của N.K.Đ:
+ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
+ “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần,
sàng”
+ “ĐN là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ
thầm”
-> trong diện mạo của các câu thơ
trên ta bắt găp câu thành ngữ: “Một nắng hai sương”, câu ca dao: “Tay
nâng đĩa muối chén gừng – Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” và bài ca
dao nổi tiếng: “Khăn thương nhớ ai, khăn rơi xuống đất – Khăn thương nhớ ai,
khăn vắt lên vai…”
- Có những câu thơ rất giản dị nhưng được nhào nặn, tái tạo từ nhiều nguồn
chất liệu khác nhau: “ĐN bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
+ Câu thơ gợi lên một tập tục đã ăn sâu vào truyền thống của dân tộc (tục
ăn trầu), gợi nhớ câu thành ngữ quen thuộc “Miếng trầu là đầu câu
chuyện”=> nét đẹp trong văn hóa ứng xử của ngườiViệt , và những đạo lí
tình nghĩa gia đình qua “Sự tích trầu cau”…
+ Hình ảnh “miếng trầu bây giờ b ăn” còn là một biểu tượng thiêng liêng:
Mỗi miếng trầu đều gánh trong nó một phần ĐN; mỗi miếng trầu bà ăn hôm nay đều
đã có 4000 năm tuổi. Quá khứ luôn có mặt với hiện tại, lịch sử vẫn hiện diện
với hôm nay
-> ĐN được chắt chiu, gìn giữ trong cả những sự vật nhỏ bé, bình dị.
=> Văn hóa dân gian đã khơi dòng cảm hứng, chảy từ hình tượng đến từng
câu chữ của đoạn trích “Đất Nước”.
b. Tư tưởng “ Đất nước của nhân dân” được cảm nhận
theo chiều rộng của không gian địa lí,, chiều dài thời gian lịch sử và chiều
sâu của bản sắc văn hóa:
* Theo chiều rộng của không gian địa lí :
N/d đã hóa thân vào sông núi thiên nhiên
làm nên dáng hình ĐN :
- TG khẳng định những cảnh quan t/nhiên
của ĐN đều từ n/d mà có:
“ Những người vợ nhớ
chồng……thắng cảnh”
+ Liệt kê dồn dập => kể ra biết
bao địa danh t/nhiên ở 3 miền ĐN. Mỗi
địa danh không phải là những dòng tên vô nghĩa. Đằng sau mỗi tên đất, tên rừng,
tên núi, tên sông là mỗi cuộc đời n/dân ; mỗi cuộc đời là một huyền thoại…
+ Điệp từ “ góp” =>
nhấn mạnh 1 chân lí chính nhân dân đã gây dựng, mở mang, gìn giữ làm nên đất nước này: n/d là chủ nhân của ĐN
Mỗi địa danh gắn với những cái tên bình dị của n/d như “ ông Đốc, ôngTrang,
bà Đen ,bà Điểm…” => t/cảm yêu mến tự hào
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối
sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng
thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
+ Câu hỏi tu từ,giọng thơ tha thiết
và thán từ “ôi” => cảm xúc dâng tràn trước phát hiện mỗi
con người,mỗi vật đi qua trong LS đều để
lại chút gì cho ĐN=> tự hào, biết ơn
sâu sắc
* Theo chiều dài lịch sử và bề
sâu văn hóa:
- Nhìn về lịch sử, N.K.Đ không nhắc
đến các triều đại nổi tiếng, những anh hùng đã lưu danh. Nhà thơ thấy lịch sử
4000 năm của dân tộc là một cuộc chạy tiếp sức không mệt mỏi của hàng ngàn thế
hệ. Họ là những người vô danh, bình dị , là Nhân dân lặng thầm hi sinh bảo vệ ĐN . N/dân đã hóa
thân mình cho “dáng hình xứ sở” muôn đời :
“Có biết
bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra ĐN”
=> Lòng tri ân, tự hào ,cảm phục
- Từ chiều sâu văn hóa: TG khẳng
định nhân dân _ những con người “không ai nhớ mặt đặt tên” đã gìn giữ và lưu
truyền những giá trị vật chất và tinh thần cho các thế hệ mai sau,giữ hồn Việt
qua những việc cụ thể:
“Họ giữ
và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con
cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã tên
làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái
trái
Có ngoại xm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để ĐN này là ĐN của Nhân dân
ĐN của Nhân dân, ĐN của ca dao thần thoại”
- Sự sống của cộng đồng theo thời gian được kết tinh thành bản sắc văn hóa
riêng. N.K.Đ nghiền ngẫm và khám phá bề dày văn hóa của dân tộc qua những hình
ảnh hết sức bất ngờ và cảm động:
+ Nhà thơ không nhắc đến những công trình văn hóa hay những tác phẩm văn
học nổi tiếng mà phát hiện ra trong những sự vật bình thường nhỏ bé chứa đựng
văn hóa ngàn đời của đất nước: từ hình ảnh
bới tóc sau đầu của mẹ đến
miếng trầu của bà, từ hạt gạo ta ăn ,cái nhà ta ở đến hình ảnh
của lửa,hòn than, con cúi và tiếng nói dân tộc, cùng những kinh nghiệm sản
xuất…
=> Bằng tấm lòng trân trọng tất ca những gì mà tổ tiên đã chắt chiu, gìn
giữ, N.K.Đ đã sáng tạo những câu thơ làm rung động tâm hồn của người Việt. Đó
là sản phẩm của một tư duy sắc sảo, nhưng trước hết là sản phẩm của một trái
tim yêu nước, yêu dân tha thiết
c. Nghệ thuật:
- Đây là đoạn thơ trữ tình – chính luận; kết hợp thành công xúc cảm và suy
nghĩ, trữ tình – chính luận.
- N.K.Đ đ sử dụng rộng rãi và sáng tạo các chất liệu của văn hóa dân gian _
điều đó đã tạo ra cho đoạn thơ 1 không gian nghệ thuật đặc sắc: gợi mở 1 thế
giới nghệ thuật quen thuộc, gần gũi mà bay bổng của văn hóa dân gian, kết tinh
tâm hồn và trí tuệ của nhân dân.
- Hai chữ ĐN và Nhân dân được viết hoa trang trọng và điệp lại nhiều lần
vang vọng khắp đoạn trích như một khúc nhạc thiêng về sự sinh thành và trường
tồn của ĐN.
III. Kết bài:
- Với ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, nhà thơ đã bình dị hóa đất nước một cách
bất ngờ, cảm động.
- Bên cạnh những khái niệm trừu tượng, kì vĩ về đất nước mà ta đã bắt gặp
trong “Nam quốc sơn hà” (Lí Thường Kiệt?), “Bình Ngô đại cáo” (Nguyễn Trãi),
người đọc ngỡ ngàng, cảm động nhận ra một đất nước thân thương, máu thịt trong
thơ N.K.Đ – “ĐN của Nhân dân, ĐN của ca dao thần thoại
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét