Phân tích
đoạn thơ sau:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
…Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
(Trích “Tây Tiến” – Quang Dũng)
DÀN BÀI:
I. Mở
bài:
- Quang Dũng
thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp.
- “Tây tiến”
là sự hồi tưởng của nhà thơ về đoàn quân Tây Tiến, về cảnh vật và con người Tây
Bắc một thời gian khổ và oai hùng. Tất cả được thể hiện qua một hồn thơ lãng mạn,
một bút pháp tài hoa và độc đáo.
- Ngòi bút
tài hoa của QD bộc lộ rõ nét trong khổ thơ thứ hai. Ơ đó hồn thơ lãng mạn của QD bị hấp dẫn trước vẻ đẹp của
con người và cảnh vật Tây Bắc.
- Trích dẫn
thơ.
II.
Thân bài:
1.
Khái quát:
- Giới thiệu
ngắn gọn: về đoàn quân Tây Tiến và hoàn cảnh ra đời của bài thơ (đề 1).
- Đoạn thơ
này mở ra một thế giới khác của Tây Bắc. Cảnh núi rừng hoang vu hiểm trở ở đoạn
đầu lùi dần và khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng của cảnh và người
Tây Bắc. Cảnh và người hiện lên trong một thời gian làm nổi lên rõ nhất vẻ lung
linh, huyền ảo của nó: Cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng và cảnh một buổi
chiều sương phủ trên sông nước mênh mang.
2.
Phân tích:
a.
Bốn câu thơ đầu:
“Doanh
trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Kèn lên
man điệu nàng e ấp
Nhạc về
Viên Chăn xây hồn thơ”
- Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính
Tây Tiến có sự góp mặt của đồng bào địa phương được miêu tả bằng những chi tiết
rất thực mà cũng rất mộng. Người đọc như lạc vào thế giới của ánh sáng, vũ điệu
và âm thanh
- Hồn thơ QD
lãng mạn, say mê:
+ Trong ánh
sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cảnh vật và
con người ngả nghiêng, ngất ngây, rạo rực
+ Hai chữ “Kìa
em” thể hiện cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê say, vui sướng. Nhân vật
trung tâm của đêm liên hoan là những cô gái Tây Bắc bất ngờ hiện ra với vẻ đẹp
vừa kì lạ, vừa lộng lẫy với xiêm áo rực rỡ, vừa tình tứ “e ấp” trong một vũ điệu
mang đậm màu sắc xứ lạ “man điệu” đã thu hút hồn vía của các chàng trai thị
thành.
- Những chữ “xiêm
áo – man điệu – khèn – hồn thơ” gợi lên một vẻ đẹp vừa mới lạ, vừa xa xôi, vừa
bí ẩn.
b. Bốn
câu thơ cuối:
“Người đi
Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
- Bốn câu thơ
giàu chất thơ, chất họa. Sông nước Tây Bắc gợi ra cảm giác mênh mang, mờ ảo.
- Bút pháp
chấm phá tài hoa, tinh tế. Không gian sông nước rộng lớn, cảnh thưa thớt, thấp
thoáng bóng người, bóng hoa. Cảnh không rõ nét mà mờ nhòa, tất cả phủ trong màn
sương huyền thoại: chiều mông lung sương, hồn lau phảng phất.
- Không gian
dòng sông trong buổi chiều mang đậm màu sắc cổ tích, nổi bật trên dòng sông là
dáng hình mềm mại, uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc
- Cảnh vật
qua ngòi bút QD như có hồn phảng phất trong gió, trong cây. Nhà thơ không chỉ
làm hiển hiện trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần
linh thiêng của cảnh vật: “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”
=> Hùng vĩ
gắn với thơ mộng là cái nhìn riêng của hồn thơ QD trước núi rừng Tây Bắc. Xuyên
qua cảnh vật là một hoài niệm tinh tế mà sâu nặng, bâng khuâng, da diết của tác
giả với vùng đất gắn bó một thời với binh đoàn Tây Tiến.
III. Kết
bài:
- Hồn thơ
lãng mạn của QD như được chắp cánh bởi vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây
Bắc.
- Đoạn thơ khiến người đọc
như lạc vào thế giới của cái đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm nhạc. Tám câu thơ
đã hội tụ tất cả nét tài hoa của người nghệ sĩ đa tài, đa tình này: thơ – nhạc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét