Phân tích
đoạn thơ trích trong “Việt Bắc” của Tố Hữu
Mình về mình có nhớ ta
(…)
Tân trào, Hồng Thái, mái đình cây đa.
* ĐỊNH HƯỚNG :
I.Mở bài ( vận dụng
cách mở bài của các đề trên)
II. Thân bài:
1.Bốn câu
đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán
bộ chiến sĩ khi chia tay:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ?
-
Điệp
từ “nhớ” luyến láy trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng,
tràn đầy thương nhớ.
-
Cách
xưng hô ”mình – ta” mộc mạc, thân gần gợi liên tưởng ca dao: “Mình về ta chẳng cho về – Ta nắm dải áo, ta
đề bài thơ”.
-
“15 năm” là chi tiết thực chỉ độ dài
thời gian từ năm 1940 thời kháng Nhật và tiếp theo là phong trào Việt Minh,
đồng thời cũng là chi tiết gợi cảm – nói lên chiều dài gắn bó thương nhớ vô
vàn. Câu thơ mang dáng dấp một câu Kiều – Mười lăm năm bằng thời gian Kim –
Kiều xa cách thương nhớ mong đợi hướng về nhau. (Những là rày ước mai ao – Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình). Cảm
xúc đậm đà chất dân gian, đậm đà chất Kiều.
-
Âm điệu ngọt ngào, giọng thơ nồng ấm, tình cảm do vậy dạt dào thiết tha. Việt Bắc hỏi về :
“Mình về mình có nhớ không – Nhìn cây nhớ
núi, nhìn sông nhớ nguồn?”. Câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm
lời dặn dò kín đáo: đừng quên cội nguồn Việt Bắc – cội nguồn cách mạng.
2.Bốn câu tiếp
theo là nỗi lòng của người về:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
-“Bâng khuâng, bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm buồn vui, luyến
tiếc, nhớ thương, chờ mong… lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm năm Việt Bắc cưu
mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổ có nhau, mười lăm năm đầy
những kỉ niệm chiến đấu, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ mới về tiếp
quản tại thủ đô Hà Nội (10/1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh
nào, tâm trạng của người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bâng khuâng khó
tả.
-“Áo chàm đưa buổi phân li” vừa là
một hoán dụ,vừa
ẩn dụ : màu áo chàm, màu áo xanh đen đặc trưng của người miền núi Việt Bắc
– tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh cụ thể “áo chàm”, chiếc áo, màu
áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc của vùng quê nghèo thượng du đồi núi nhưng sâu nặng
nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước.
- Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”đầy tính chất biểu cảm – biết nói gì không phải không
có điều để giãi bày mà chính vì có quá nhiều điều muốn nói không biết phải nói
điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một dấu lặng trên khuôn nhạc để tình
cảm ngân dài, sâu lắng…
3.12 câu
tiếp theo kết thúc
đoạn trích, là lời tâm tình của Việt Bắc:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa
- Điệp từ “nhớ” lập đi lập lại nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, ghi nhớ, nhắc nhở.
Hàng loạt những câu hỏi tu từ bày tỏ tình cảm tha thiết đậm đà của Việt Bắc.
Tình cảm lưu luyến của người đưa tiễn, gửi đi nỗi nhớ mong, gửi lại niềm thương
theo cách:
“Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
- Việt Bắc nhắc
người cán bộ chiến sĩ đừng quên những năm tháng gian lao vất vả, hoạt động
chiến đấu trong điều kiện trang bị tiếp tế còn thô sơ, thiếu thốn.
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
+“Miếng
cơm chấm muối” là chi tiết thực, phản ánh cuộc sống kháng chiến gian
khổ. Và cách nói “mối thù nặng vai” nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân
cướp nước, đè nặng vai dân tộc ta.
Cảm xúc thương nhớ xa vắng thả vào không gian rừng núi,
gợi nỗi niềm dào dạt:
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
+Hình ảnh “Trám
bùi để rụng, măng mai để già” gợi nỗi buồn thiếu vắng – “Trám rụng –
măng già ” không ai thu hái. Nỗi ngùi nhớ bức bối như thúc vào lòng kẻ ở lại.
+Tiễn người
về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó, đã làm cho nỗi
buồn nhớ trở nên trong sáng. Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”, đồng
thời nhắc
nhở khéo léo tấm “lòng son” của người cán bộ chiến sĩ. Xin đừng quên thời kỳ
“kháng Nhật thuở còn Việt Minh”, đừng quên cội nguồn cách mạng, đừng
quên để chăm lo giữ gìn sự nghiệp cách mạng.
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa.
III. Kết bài:
Tóm lại, đoạn thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là
lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ trên tiêu biểu sắc thái phong cách Tố
Hữu, giọng
điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến
con người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp
của quân dân ta, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son sắt của người cán bộ,
chiến sĩ đối với “Việt Bắc”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét