Thứ Hai, 28 tháng 10, 2013

Phân tích: “Ta với mình, mình với ta … Chày đêm, nên cối đều đều suối xa”.

Phân tích đoạn thơ sau đây:
“Ta với mình, mình với ta
… Chày đêm, nên cối đều đều suối xa”.
(Trích “Việt Bắc” - Tố Hữu)
                                                            DÀN BÀI
I. Mở bài:
- Tố Hữu là một tên tuổi lớn của nền văn học Việt Nam.
- Việt Bắc là một trong những bài thơ xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ cách mạng này.
- Bài thơ bày tỏ tấm lòng son sắt của người kháng chiến với quê hương Việt Bắc. Tình cảm ấy được thể hiện đặc sắc trong đoạn thơ sau.
- Trích dẫn thơ.
II.Thân bài:
1. Khái quát:
- Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7-1954,Hiệp định Giơ – ne – vơ về Đông Dương được kí kết. Hoà bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới. Một trang sử  mới của dân tộc được mở ra.
- Thng 10-1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc.

2. Phân tích cụ thể:
a. Người ra đi khẳng định lòng chung thủy của mình:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”
 - Ở đoạn đầu của bài thơ, người Việt bắc trong nỗi niềm của người ở lại: Sợ người ra đi trở về thành thị sẽ quên mất mình (Sáng đèn có nhớ mảnh trăng giữa rừng). Niềm phấp phỏng ấy được diễn tả bằng một câu hỏi: “Mình về mình có nhớ …”, “Mình đi có nhớ … “. Vì vậy 4 câu thơ trên là câu trả lời, sự khẳng định của người ra đi.
- Lời thơ óng ả, dịu dàng, tình tứ với lối xưng hô thân mật, ngọt ngào của ca dao, dân ca “ta - mình”. Nỗi nhớ của người cách mạng về quê hương Biệt Bắc giống như nỗi nhớ của những đôi lứa yêu nhau. Sự sắp xếp từ liền đôi, thành cặp trong câu đã có đảo trật tự từ “Ta với mình, mình với ta” vừa gợi ra sự bịn rịn, lưu luyến, quấn quýt không muốn rời xa của “ta” và “mình”, vừa khéo léo khẳng định tấm lòng của “ta” cũng giống như “mình”.
- Những từ ngữ chỉ thời gian mãi mãi “sau, trước” chỉ tình cảm trước sau như một, không nhạt phai, đinh ninh “mặn mà” xuất hiện liên tiếp trong một câu thơ đã khẳng định một cách chắc chắn lòng son sắt của những người kháng chiến về xuôi. Câu thơ “Lòng ta sau trước mặn mà” đinh ninh vừa là lời an ủi, vỗ về vừa là lời thề thủy chung sâu nặng.
- Mượn cách so sánh, ví von quen thuộc của ca dao để giãi bày nỗi nhớ da diết, không vơi cạn:
“Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”
b. Nỗi nhớ Việt Bắc được diễn tả cụ thể:
(“Nhớ gì như nhớ người yêu
… Chày đêm nện cối đều đều suối xa”)
* Nỗi nhớ thiên nhiên Việt Bắc:
- Hàng loạt hình ảnh liệt kê, cụ thể, gần gũi, gợi cảm: trăng, núi, nắng, khói, sương, rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê … làm hiện lên một thiên nhiên thơ mộng, trữ tình và mang đậm nét đặc trưng của Việt Bắc.
- Nỗi nhớ có hình ảnh, có thời gian và không gian. Đó là một nỗi nhớ sâu đậm và quá đỗi chân thành.
* Nỗi nhớ con người Việt Bắc:
- Nét đặc sắc cao quí của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình, rộng mở, son sắt, thủy chung với cách mạng:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.
- Thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng, trầm tĩnh, thâm u, con người Việt Bắc giản dị, mộc mạc, dù cuộc sống lao động gian khổ nhưng họ lạc quan yêu đời.
+ Hình ảnh người mẹ vất vả, nhọc nhằm nhưng ấm áp cảm động, địu con trên lưng dưới cái nắng cháy da để bẻ bắp nuôi bộ đội:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”.
+ Trong kí ức của Tố Hữu, Việt Bắc không chỉ kiên cường trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm mà còn nhẫn nại, cương quyết đương đầu với giặc dốt. Đêm rừng Việt Bắc bập bùng đuốc sáng của những lớp học i tờ. Niềm vui, sự lạc quan chiến thắng sự gian nan, người Việt Bắc vẫn ca vang núi đèo:
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sớm những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”.
- Việt Bắc trở thành quê hương của những người kháng chiến - tình yêu đã “làm đất lạ hóa quê hương (Chế Lan Viên). Cả những âm thanh của đời thường cũng đi vào nỗi nhớ của người ra đi: đó là tiếng mõ gọi trâu về làng, tiếng chày giã gạo đêm đêm:
“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nên cối đều đều suối xa”.
- Nỗi nhớ dội vào nỗi nhớ, điệp từ “nhớ” và kiểu câu bắt đầu bằng “Nhớ sao” khiến nỗi nhớ như trải dài vô tận
III. Kết bài:
- Đoạn thơ bộc lộ nỗi nhớ của người cách mạng về xuôi với quê hương Việt Bắc. Không chỉ nhớ thiên nhiên, nhớ những ngày kháng chiến gian khổ mà nhớ người Việt Bắc ân tình, thủy chung.
- Ngôn ngữ thơ bình dị, giọng điệu ngọt ngào tha thiết mang đậm chất trữ tình, chính trị, tính dân tộc.
- Tóm lại, đoạn thơ là bốn bức tranh, bốn cảnh sắc, bốn dáng điệu. Tố Hữu đã thâu tóm được những gì là đặc trưng nhất của quê hương cách mạng. Tất cả đều hiện lên trong điệp khúc nhớ thương, mặn mà, da diết.
- Ngôn ngữ giản dị, ngọt ngào, giàu tính dân tộc …

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét