Phân tích đoạn thơ sau đây
trong bài thơ “Việt Bắc ” của Tố Hữu:
“Nhớ gì nhơ nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi , nắng chiều lưng nương.
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi”
* Định hướngI.
Mở bài ( vận
dụng cách mở bài của đề 1):
- Giới
thiệu ngắn gọn hoàn cảnh sang tác của bài thơ.
- Đoạn thơ “ Nhớ
gì như nhớ người yêu……Mình đây , ta đó đắng cay ngọt bùi thuộc phần 2 của bài thơ Việt Bắc
- Sau bối cảnh phân li là lời đối đáp của kẻ ở
người đi : người ở lại nhắn nhủ người ra đi mười hai dòng lục bát.Còn người đi
đáp lại người ở lại những 72 dòng. Trong 72 dòng ấy, nỗi nhớ được khơi ra chồng
chất; và một trong nhiều nỗi nhớ ấy có
nỗi nhớ da diết “ như nhớ người yêu”
của người đi.
.II. Thân bài:
1. Trước hết, ở 2 câu đầu của đoạn thơ :
“Nhớ gì như nhớ người yêu.
Trăng lên đầu núi , nắng chiều lưng nương”
- Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ
trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình cảm của cán bộ đối với nhân dân.
Không phải là nỗi nhớ của ý thức , của nghĩa vụ mà nhớ bằng cả trái tim yêu thương chân thành và da diết.
- Câu thơ
“Trăng lên đầu núi…” như được phân ra
làm 2 nửa thời gian : vế đầu là hình ảnh
gợi tả đêm trăng hò hẹn của tình yêu; vế sau là hình ảnh gợi không gian của
buổi chiều lao động trên nương rẫy. Thời gian như chảy ngược - nỗi nhớ như
đi từ gần tới xa, thăm thẳm trong quá khứ. Tình yêu gắn liền với lao động; lao
động nảy sinh ra tình yêu . Câu thơ cùng lúc thể hiện hai không gian của
tình yêu và lao động, tạo nên sự hài hoà giữa nghĩa vụ và tình cảm.
2. Đến hai câu thơ tiếp, tình
yêu như chuyển thành nỗi nhớ trong tình cảm gia đình. Toàn không gian núi rừng Việt Bắc được gói gọn trong không khí gia đình
ấm áp tình thương.
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
- Nỗi
nhớ không còn mông lung, mơ mộng nữa mà đã cụ thể trong những bản làng, những
mái nhà thấp thoáng trong những làn khói sương hư ảo. ( Hình ảnh khói sươnglà đặc điểm của cuộc sống Việt Bắc, vừa là khói
sương của thiên nhiên, đồng thời như là hơi ấm của tình đời, tình người toả ra)
.Có hình ảnh của ai đó đang chờ đợi bên bếp lửa suốt đêm dài thao thức ( cứ như cảnh vợ chờ cơm chồng).
à Quan hệ giữa cán bộ và nhân dân như tụ họp ở ngọn lửa bất diệt thiêng
liêng ấy.
3.Kết thúc khổ thơ , tình cảm lại toả ra tràn ngập cả núi rừng Việt Bác. Những
kỷ niệm chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra trong tưởng tượng
của người đi :
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày,
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”
- Bằng
phép liệt kê làm cho những kỷ niệm khơi
ra tầng tầng lớp lớp, hết hình ảnh này, đến hình ảnh khác.
+
Những hình ảnh “rừng nứa bờ tre” chính là nơi hẹn hò, gặp gỡ cái thở ban đầu
,lúc mới quen nhau. Đây cũng là những danh từ chungmô tả đặc điểm của không
gian Việt Bắc với bao nét đẹp mơ mộng.
+ Còn
“Ngòi
Thia , sông Đáy , suối Lê … là những địa danh lịch sử , đã từng khắc
ghi trong lịch sử Cách mạng- nơi đã diễn ra nhiều chiến công oanh liệt .
à Những gắn bó gian khổ, ngọt bùi đã
trở thành những kỷ niệm da diết trong trái tim người đi khó có thể quên được.
III. Kết :Đoạn thơ là những hồi
ức và nỗi nhớ thương da diết của người đi với Việt Bắc.--> Tấm lòng của CBKC
với Việt Bắc sâu đậm ân tình.Đoạn thơ còn là sự thể hiện thành công phong cách
thơ Tố Hữu : ngọt ngào tha thiết và đậm đà tính dân tộc.....
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét